Cập nhật nội dung chi tiết về Cảm Nhận Về Bài Thơ “Khi Con Tu Hú” (6) mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Khi con tu hú của Tố Hữu là một trong những bài thơ để ta nhớ – nhớ tình người và nhớ tình đời một thời gian khổ mà oanh liệt.Có những bài thơ để ta yêu. Có những bài thơ để ta nhớ. Bàicủa Tố Hữu là một trong những bài thơ để ta nhớ – nhớ tình người và nhớ tình đời một thời gian khổ mà oanh liệt.
Bài thơ này, Tố Hữu viết vào tháng 7-1939, khi nhà thơ bước sang tuổi 19, ở nhà lao Thừa Thiên, tư thế hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ gồm 10 câu lục bát, chứa đầy tâm trạng. Sáu câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ da diết đồng quê. Bốn câu cuối là niềm sục sôi căm hờn uất hận.
Thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), Tố Hữu được giác ngộ cách mạng, hoạt động bí mật trong học sinh, thanh niên tại thành phố Huế quê mẹ. Tháng 4-1939, nhà thơ bị mật thám Pháp bắt giam. Nhiều bài thơ tràn đầy dũng khí cách mạng được viết sau song sắt nhà tù đế quốc, sau này được tập hợp lại trong phần Xiềng xích của tập Từ ấy.
Sống trong cảnh lao tù ngột ngạt, người chiến sĩ trẻ lúc nào cũng hướng tâm hồn mình về cuộc sống bên ngoài song sắt nhà tù. Với tâm hồn khao khát tự do và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ lắng nghe mọi âm thanh từ xa vọng đến nơi tối tăm tù ngục.
Tiếng kêu của chim tu hú trên đồng quê nghe bồi hồi, tha thiết. Tiếng chim gọi bầy xa gần vang lên. Tiếng ve ngân lên từ những vườn cây trái đôi bờ sông Hương suốt đêm ngày nghe dắng dỏi. Tiếng sáo diều trên đồng quê gợi nhớ gợi thương một thời cắp sách với bao kỉ niệm đẹp:
Khi con tu hú gọi bầy
…
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
Nhớ khúc nhạc đồng quê những âm thanh dân dã bình dị và thân quen ấy vô cùng, bởi lẽ trong cảnh tù đày nhà thơ khao khát một tình quê vơi đầy, nhớ khôn nguôi.
Chân tay bị cùm trói trong bốn bức tường xám lạnh và kín mít, người chiến sĩ vẫn nhìn thấy cảnh sắc quê hương bằng tất cả tấm lòng nhớ quê, yêu quê. Sự tưởng tượng thật phi thường. Trong tâm hồn Tố Hữu lúc bấy giờ, hình ảnh quê hương lần lượt hiện lên như một cuốn phim màu tuyệt đẹp.
Có màu vàng thẫm của lúa chiêm, màu đỏ của trái chín với vị ngọt say người:
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Có màu “vàng” của bắp, màu “đào” của nắng hạ:
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Có màu “xanh” của bầu trời trên đồng quê. Cánh đồng thì rộng, mây trời thì cao.
Các tính từ chỉ màu sắc, tính từ chỉ tính chất: “Xanh, vàng, đào, ngọt, rộng, cao”, được phối hợp hài hoà, gợi tả màu sắc và hương vị quê nhà. Những âm thanh nghe thấy, những hình ảnh tưởng tượng thể hiện một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, nỗi nhớ da diết triền miên suốt đêm ngày không bao giờ nguôi. Nỗi nhớ ấy đã phản ánh khát vọng tự do bùng lên như ngọn lửa cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trong đoạ đầy. Trong một bài thơ khác của phần Xiềng xích, Tố Hữu đã nói lên tâm trạng mình khao khát tự do, luôn luôn hướng tâm hồn mình ra ánh sáng, hướng vẻ cuộc sống bên ngoài:
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều,
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về
Bài thơ Khi con tu hú thật đáng nhớ. Bốn câu thơ, đã bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ. Đầy bực bội và sục sôi! Đầy căm thù, uất hận:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao, chết uất thôi
“Phòng” là phòng giam, là nhà đá, là nơi biệt giam những người con ưu tú của dân tộc. Lòng căm thù được thể hiện bằng ước muốn và hành động quyết liệt: “Mà muốn đạp tan phòng hè ôi!”. “Phòng” ở đây còn tượng trưng cho chế độ thực dân với chính sách cai trị dã man đang đầy đoạ nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ.
“Đạp tan phòng…” là đạp tan chế độ thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do. Câu cảm thán: “Ngột làm sao! Chết uất thôi!“là tiếng than, là thái độ căm giận sục sôi, quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Câu thơ Tố Hữu là sự kế thừa những bài ca yêu nước của ông cha ta những năm đầu thế kỉ XX:
Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột
Vạch trời: kêu mà tuốt gươm ra
Khép lại bài thơ là tiếng kêu của chim tu hú. Âm thanh ấy góp phần đặc tả tâm trạng người chiến sĩ cách mạng. Tiếng chim gọi bầy… tiếng chim báo mùa gặt, gợi nhớ hương vị và cảnh sắc đồng quê. Tiếng chim khắc khoải giục giã căm hờn, nung nấu tinh thần bất khuất đấu tranh.
Có thể nói chất trữ tình tráng ca được diễn đạt một cách đặc sắc để nói tình yêu thuơng và lòng căm giận của nhà thơ trong cảnh tù đày. Cái hay của bài thơ là lấy ngoại cảnh để diễn đạt tâm trạng. Tiếng kêu của chim tu hú như một ám ảnh. Nói rằng bài thơ để ta nhớ là vì thế. Ta nhớ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có một đầu óc lạnh và một trái tim nóng đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
Đọc bài thơ đầy tâm huyết của Tố Hữu, là cảm nhận một phần nào tinh thần gang thép của những chiến sĩ cách mạng. Sống vì tự do và sẵn sàng chết vì tự do. Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ cộng sản trong các nhà tù đế quốc đã chuẩn bị cho nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Uống nước nhớ nguồn, chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn các chiến sĩ cách mạng.
Thật vậy, bài thơ Khi con tu hú gợi nhớ trong lòng ta:
Những hồn Trần Phú vô danh Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn
Cảm Nhận Về Bài Thơ “Khi Con Tu Hú” Của Nhà Thơ Tố Hữu
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý I/ Mở bài
– Cảm nhận chung về tác giả, tác phẩm.
II/ Thân bài 1. Cảm nhận về cảnh đất trời vào hè
– Cảnh đất trời vào hè với nhiều âm thanh:
+ Tiếng chim tu hú
+ Tiếng ve ngân
+ Tiếng sáo diều
⇒ Âm thanh rộn rã, tươi vui
– Bên cạnh đó có nhiều màu sắc
+ Vàng: Bắp, lúa
+ Xanh: Trời
+ Hồng: nắng
⇒ Màu sắc tươi tắn, rực rỡ
– Nhiều hương vị:
+ Vị lúa chín
+ Vị ngọt của trái cây
⇒ Những hương vị hết sức ngọt ngào tinh khiết
– Không gian đất trời cao rộng, cánh diều chao liêng ⇒ Sự khoáng đạt đầy tự do
⇒ Kết hợp biện pháp tu từ cùng với những tính từ, từ láy ⇒ bức tranh trong tâm tưởng về mùa hè tươi đẹp của người chiến sĩ trong cảnh tù đày
2. Cảm nhận về người tù cách mạng khao khát tự do, đau khổ vì bị giam cầm
– Từ ngữ mạnh: “đạp”, “ngột”, “chết”, “uất”
– Từ ngữ cảm thán: “ôi”, “thôi”, “làm sao”,
⇒ Nghệ thuật tương phản cho thấy sự đối lập giữa cảnh đất trời bao la và cảnh tù đầy, người chiến sĩ khao khát tự do cháy bỏng, muốn đập tan mọi thứ để thoát khỏi cảnh tù túng
⇒ Bài thơ kết thúc với tâm trạng nhức nhối, là dấu hiệu báo trước sự hành động để thoát khỏi hoàn cảnh sau này (Tố Hữu sau đó đã vượt ngục để vươn tới bầu trời tự do)
III/ Kết bài
– Khái quát những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản
– Bài thơ là bức chân dung tinh thần tự họa của Tố Hữu, cho chúng ta hiểu thêm về hình ảnh người chiến sĩ cách mạng anh hùng
Bài mẫu
Tố Hữu viết bài thơ “Khi con tu hú” vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày “ác mộng” bị cùm trói trong nhà lao Thừa Thiên. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, tâm trạng nghệ thuật, đồng hiện qua 10 câu thơ lục bát da diết và ám ảnh. Cái mùa hè hơn 70 năm về trước ấy thật không bao giờ có thể quên!
Tiếng chim tu hú vọng qua song sắt nhà tù hay tiếng chim trong nỗi nhớ, trong hoài niệm?
Chim thì “gọi bầy”. Lúa chiêm thì “đương chín”. Trái cây thì “ngọt dần”. Âm thanh ấy, hương vị ấy thể hiện nỗi nhớ đồng quê, nhớ làng xóm thân yêu. Chữ “đương chín” và “ngọt dần” gợi tả thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Một giọng thơ bồi hồi tha thiết: “Nghe chim như nhắc tấm lồng thần hôn” (Truyện Kiều):
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”
Giữa chốn ngục tù “lòng sôi rạo rực”, người chiến sĩ trẻ nhớ “tiếng ve ngân”, nhớ màu “vàng” của bắp, nhớ màu “đào” của nắng. Cánh sắc đồng quê trong hoài niệm trào lên trong tâm hồn biết bao bình dị, thân thiết, yêu thương:
“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào”.
Có khao khát sống mới có nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve chứa đầy tâm trạng. Ve không kêu mà là “ve ngân”. Sáu trăm năm về trước, Nguyễn Trãi lấy tiếng ve để nói về cảnh tình mùa hè:
“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
(Quốc âm thi tập)
Sau này, trong bài “Việt Bắc”, Tố Hữu lại viết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng”.
Sau tiếng ve là màu “vàng” của bắp, là màu “đào” của nắng hiện lên. Chữ “ngân” tả tiếng ve “sôi” lên và ngân dài trong vườn quê. Chữ “đầy” gợi nắng đẹp, nắng chan hòa, nắng đầy sân, nắng rực rỡ.
Nỗi nhớ trở nên bồi hồi: nhớ bầu trời xanh, nhớ con diều sáo “lộn nhào” giữa cái mênh mông “cao rộng” của từng không. Hình ảnh con diều “lộn nhào từng không” mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung hoành và khát vọng tự do:.
“Trời xanh càng rộng càng cao,
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu. Thơ nên nhạc, nên họa. Ngôn từ trong sáng, tinh luyện. Mỗi chữ được dùng như được chắt lọc qua hồn quê và hồn thơ đậm đà: “đương chín”, “ngọt dần”, “dậy tiếng ve ngân”, “đầy sân nắng đào”, “xanh, rộng, cao”, “lộn nhào”…
Trẻ trung và yêu đời, say mê và khao khát sống, khao khát tự do. Nhà thơ đang bị đày đọa trong ngục tối, nhưng ” tinh thần ở ngoài lao” mới có cảm xúc, cảm hứng ấy.
Giọng thơ từ tha thiết nhớ chuyển thành uất hận sục sôi:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chán muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”.
Mùa hè đã đến, mùa hè đang qua. Bao âm thanh đã “dậy bên lòng”, thôi thúc, gịuc giã: “muốn đạp tan phòng” xà lim chật chội. Không cam chịu cảnh tù đày! Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ “Ngột làm sao / chết uất thôi” với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc như nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do! Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú “gọi bầy”, khép lại bài thơ là tiếng chim tu hú ”ngoài trời cứ kêu”. Tiếng chim vừa gợi nhớ gợi thương, vừa giục giã lên đường chiến đấu.
“Khi con tu hú” là khúc ca tâm tình, là tiếng gọi đàn, hướng về đồng quê và bầu trời tự do với tất cả tình yêu và niềm khao khát cháy bỏng. Bài thơ ghi lại một nét đẹp bức chân dung tinh thần tự họa của người thanh niên cộng sản Tố Hữu thuở ấy. Để ta ngưỡng mộ và tin yêu.
chúng tôi
Trình Bày Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Khi Con Tu Hú Của Nhà Thơ Tố Hữu
Đề bài: Em hãy trình bày cảm nhận của em về bài thơ Khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu
I. Dàn ý bài viết
1. Mở bài
Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ “Khi con tu hú”: Bài thơ “Khi con tu hú” được ông sáng tác trong khoảng thời gian bị giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), trong không gian chật hẹp và tối tăm của nhà tù, tâm trạng của nhà thơ đã được bộc lộ rõ nét qua từng câu thơ.
2. Thân bài
-Cảm nhận về tiếng chim tu hú gợi nỗi nhớ trong lòng tác giả:
+ Tiếng chim tu hú báo hiệu cho mùa hè đến, thời điểm đó là vụ mùa lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, trong vườn cây hoa trái đang chín ngọt thơm hương.
+ Cả âm thanh và hương vị đều gợi lên khung cảnh của làng quê nông thôn Việt Nam khi vào hè, mọi cảnh vật đều được miêu tả ở trạng thái động “đương chín” và “ngọt dần”.
-Cảm nhận về hồi tưởng của tác giả về mùa hè:
+ Giữa chốn ngục tù tối tăm, ẩm thấp, chật hẹp và ngột ngạt, người tù cộng sản nhớ về tiếng ve đặc trưng mỗi khi hè tới, tiếng ve râm ran làm cho cái nắng hè càng thêm lan tỏa.
+ Cái nắng đào hong khô những bắp rây phơi đầy sân vàng ruộm.
-Cảm nhận về hoàn cảnh của nhà thơ:
+ Tiếng ve réo rắt và râm ran như mang đầy tâm trạng của nhà thơ, đó là tâm trạng đầy bức bối và ngột ngạt, tù túng.
+ Nhà thơ hồi tưởng về những hình ảnh bình dị, thân thuộc nơi cuộc sống làng quê và rồi đẩy nổi nhớ của mình lên cao độ.
-Cảm nhận về khát khao tự do của nhà thơ:
+ Nhà thơ muốn phá tan xiềng xích, muốn được hòa mình vào không gian mùa hè, và hơn hết là muốn được tự do, khát khao tuổi trẻ cứ thế sục sôi hừng hực trong lòng tác giả.
+ Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú, khép lại bài thơ vẫn là tiếng chim, có thể thấy tiếng chim vừa gợi nhớ thương lại vưa giục giã nơi tâm hồn người chiến sĩ trẻ.
3. Kết bài
Nêu ý nghĩa của bài thơ: Bài thơ “Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu đã cho người đọc cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên mùa hè rực rỡ thanh âm và sắc màu, bên cạnh đó là tâm hồn đầy nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người tù cộng sản.
II. Bài tham khảo
Nhà thơ Tố Hữu – một nhà thơ nổi tiếng và có sức ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học Việt Nam. Ông là một người chiến sĩ cách mạng với nhiều tác phẩm viết về cách mạng. Bài thơ “Khi con tu hú” được ông sáng tác trong khoảng thời gian bị giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), trong không gian chật hẹp và tối tăm của nhà tù, tâm trạng của nhà thơ đã được bộc lộ rõ nét qua từng câu thơ.
Người chiến sĩ trẻ – người tù cộng sản Tố Hữu đang trong cảnh lao tù bỗng nghe thấy tiếng chim tu hú vang tới nhà ngục, bài thơ bắt đầu bằng tiếng chim và tiếng chim tu hú gọi bầy chính là khởi nguồn cho những nỗi nhớ, hoài niệm của tác giả về cuộc sống bên ngoài.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần”
Tiếng chim tu hú báo hiệu cho mùa hè đến, thời điểm đó là vụ mùa lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, trong vườn cây hoa trái đang chín ngọt thơm hương. Cả âm thanh và hương vị đều gợi lên khung cảnh của làng quê nông thôn Việt Nam khi vào hè, mọi cảnh vật đều được miêu tả ở trạng thái động “đương chín” và “ngọt dần”.
“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”
Giữa chốn ngục tù tối tăm, ẩm thấp, chật hẹp và ngột ngạt, người tù cộng sản nhớ về tiếng ve đặc trưng mỗi khi hè tới, tiếng ve râm ran làm cho cái nắng hè càng thêm lan tỏa. Cái nắng đào hong khô những bắp rây phơi đầy sân vàng ruộm. Tiếng ve réo rắt và râm ran như mang đầy tâm trạng của nhà thơ, đó là tâm trạng đầy bức bối và ngột ngạt, tù túng. Nhà thơ hồi tưởng về những hình ảnh bình dị, thân thuộc nơi cuộc sống làng quê và rồi đẩy nổi nhớ của mình lên cao độ.
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Nỗi nhớ ấy lan tỏa lên tận trời cao trong xanh, nơi đó có những cánh diều tung bay nhào lộn với tiếng sáo vi vu giữa không gian bao la. Sự khoáng đạt của không gian và sự tự do của cánh diều đã khắc họa rõ hiện thực trái ngược của tác giả. Hình ảnh con diều đại diện cho ước muốn tự do, khát khao tung hoành của tác giả.
“Ta nghe hè dậy bên lòng…
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”
Đến lúc này, tiếng chim tu hú đã mang đến cho nhà thơ một tâm trạng hoàn toàn khác, đó là sự uất ức, bế tắc và ngột ngạt. Mùa hè ngoài kia đã đến, tất cả mọi thứ đều đang rạo rực và tràn đầy sức sống, là một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, nhà thơ không khỏi xót xa đau khổ khi mình vẫn bị giam cầm nơi lao tù. Nhà thơ muốn phá tan xiềng xích, muốn được hòa mình vào không gian mùa hè, và hơn hết là muốn được tự do, khát khao tuổi trẻ cứ thế sục sôi hừng hực trong lòng tác giả. Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú, khép lại bài thơ vẫn là tiếng chim, có thể thấy tiếng chim vừa gợi nhớ thương lại vưa giục giã nơi tâm hồn người chiến sĩ trẻ.
Bài thơ “Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu đã cho người đọc cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên mùa hè rực rỡ thanh âm và sắc màu, bên cạnh đó là tâm hồn đầy nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người tù cộng sản.
Bài Thơ: Khi Con Tu Hú (Tố Hữu
Tố Hữu là một con chim đầu đàn của nền thơ ca Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Thơ Tố Hữu tràn đầy lý tưởng sống cao đẹp đồng thời thể hiện tinh thần sáng tạo không mệt mỏi trên bước đường nghệ thuật. Chính vì vậy, bài thơ Khi con tu hú trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu – đã có sức cuốn hút độc giả yêu thơ, say thơ, một cách mãnh liệt.
Mở đầu bài thơ là những âm thanh sống động, mở ra một không gian tươi đẹp, thoáng đãng:
Khi con tu hú gọi bầy
Trong thi ca Việt Nam, mỗi loài chim kêu, mỗi loài hoa nở,… báo hiệu một mùa khác nhau. Tiếng chim cuốc kêu trong thơ Nguyễn Trãi báo hiệu mùa xuân đã muộn. Tiếng chim quyên nô nức gọi hè dưới trăng thanh trong thơ Nguyễn Du,… Riêng Tố Hữu, tiếng chim tu hú đi vào thơ khắc khoải báo hiệu mùa hạ đã bước sang. Tiếng chim làm sống dậy những ngày tự do, êm đềm, hạnh phúc. Thuở ấy, Tố Hữu hãy còn bên ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Phải là một trái tim nhạy cảm, rạt rào nhựa sống mới có được cái nghiêng tai tinh tế như thế giữa bốn bức tường hôi hám, chật hẹp, tối tăm,… Tố Hữu hay lắng nghe những âm thanh của cuộc sống đời thường:
Cô đơn thay là cảnh thân tù!Tai mở rộng và lòng sôi rạo rựcTôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nứcỞ ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nghé chim reo trong gió mạnh lên triềuNghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánhNghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnhDưới đường xa nghe tiếng guốc đi về.(Tâm tư trong tù)
Có thể nói, từ tiếng chim tu hú, Tố Hữu đã lắng đọng lòng mình, tập hợp các giác quan và tài năng của người nghệ sĩ để vẽ lên một bức tranh thiên nhiên mùa hè của miền Trung thân yêu:
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dầnVườn râm dậy tiếng ve ngânBắp rây vàng hạt đầy sân nắng đàoTrời xanh càng rộng càng caoĐôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Đây là một bức tranh lóng lánh sắc màu: màu vàng óng ả của lúa chín; màu vàng tươi roi rói của hoa quả; màu xanh dịu mát của khu vườn nhiều cây; màu vàng đặc trưng của bắp; màu nắng; màu xanh bao la của da trời. Như vậy hai gam màu vàng và xanh đã tô điểm cho bức tranh thơ thêm những đường nét mỹ miều, rực rỡ, đậm chất đồng quê. Bên cạnh đó, có thanh âm của tiếng ve rộn ràng lảnh lót. Tiếng ve ngân là đặc trưng của mùa hè. Các chú ve dạo bản đồng ca chào đón đức vua mùa hạ đến ngự trị. Nếu thiếu tiếng ve thì nét sinh động, nhộn nhịp của bức tranh thơ giảm đi nhiều lắm. Hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không” là nét chấm phá độc đáo làm cho cuộc sống nơi thôn quê trở nên có hồn và thi vị hơn. Nhà thơ lấy cái hữu hạn (con diều sáo) đế biểu thị cái vô hạn (từng không). Không gian của bức tranh thơ được mỏ’ ra thoáng đãng và tiến tới vô tận.
Nhà thơ đang đối diện với bốn bức tường nóng bức ngột ngạt:
Ta nghe hè dậy bền lòngMà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! (câu 8)Ngột làm sao, chết uất thôi (câu 9)Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Từ “dậy” trong tiếng Việt, theo từ điển của Nguyễn Văn Xô có ba nghĩa chính: cất mình lên; nổi lên; vang ầm. Chúng ta có thể hiểu mùa hè đã nổi lên trong lòng nhà thơ ở đỉnh điểm. Hoà với nhịp thơ ỏ’ câu 8 là 6/2; ở câu 6 là 3/3 gợi cảm giác phẫn uất, bực bội, căng thẳng tột độ của hệ thống thần kinh trung ương đồng thời cũng thể hiện được sức mạnh và ý chí anh hùng của tuổi trẻ. Bởi thế, Tản Đà nói: “Tài cao phận thấp chí khí uất”. Điều đó cũng không sai đối với Tố Hữu. Riêng câu thơ “Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi” gợi cho chúng ta nhớ tâm trạng của Nguyễn Hữu Cầu:
Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu, HánPhá vòng vây bạn với kim ô.
Phải chăng giữa Nguyễn Hữu Cầu và Tố Hữu có cùng chung một ước vọng anh hùng của đấng nam nhi? Tiếng kêu “Ngột làm sao, chết uất thôi” của Tố Hữu cũng là một tiếng kêu xé lòng của một lớp thanh niên ham sống, đầy nhiệt huyết, mong muốn đối đời của xã hội ta lúc ấy.
Cả bài thơ, Tố Hữu không nhắc đến chữ “tự do” nào nhưng qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng, chúng ta hiểu được nhà thơ nhận biết cái tất yếu đến tầng bậc nào rồi bởi lẽ “Tự do là nhận biết được cải tất yếu” (Các Mác).
Bài thơ khép lại theo lối “đầu cuối tương ứng”. Nếu câu mỏ’ đầu gợi tiếng chim tu hú khoẻ khoắn mời gọi hè thì câu kết thúc tiếng chim tu hú kêu hoài, kêu mãi giữa bầu trời mênh mông như “tiếng gọi hối thúc của thực tại”. Cái kết cấu ấy làm day dứt, xốn xang cõi lòng người đọc.
Tóm lại, Khi con tu hú là một bài thơ hay, lời lẽ mộc mạc, bình dị, dễ hiểu, câu chữ ít nhưng cô đọng, hàm súc. Bức tranh tả cảnh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng hiện lên rất cân xứng. Kết hợp với thể thơ cổ truyền của dân tộc uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã để lại sức rung, sức gợi sâu xa, bền bỉ trong lòng những độc giả yêu thơ, say thơ suốt mấy mươi năm qua.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Cảm Nhận Về Bài Thơ “Khi Con Tu Hú” (6) trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!