Cập nhật nội dung chi tiết về Bài Tập Lớn Học Kỳ Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật Hoạt Động Thẩm Định, Thẩm Tra Dự Thảo Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
A. LỜI MỞ ĐẦU Việc tìm ra, xây dựng và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật và phương thức bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp luôn là một nhiệm vụ được các nhà làm luật các nước rất coi trọng- Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ bởi nước ta đang trong quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển. Chính vì thế, bên cạnh việc sử dụng những biện pháp như thiết lập hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực mang tính “kim chỉ nam” cho toàn bộ hệ thống pháp luật; giải thích pháp luật; giám sát; kiểm ra, xử lí văn bản; pháp điển hóa pháp luật thì hoạt động thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (VB QPPL) của các chủ thể có thẩm quyền là một phương thức rất quan trọng mang tính “phòng ngừa” đang được chú trọng sử dụng và đem lại hiệu quả rất cao. .
Việc tìm ra, xây dựng và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật và phương thức bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp luôn là một nhiệm vụ được các nhà làm luật các nước rất coi trọng- Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ bởi nước ta đang trong quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển. Chính vì thế, bên cạnh việc sử dụng những biện pháp như thiết lập hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực mang tính “kim chỉ nam” cho toàn bộ hệ thống pháp luật; giải thích pháp luật; giám sát; kiểm ra, xử lí văn bản; pháp điển hóa pháp luật thì hoạt động thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (VB QPPL) của các chủ thể có thẩm quyền là một phương thức rất quan trọng mang tính “phòng ngừa” đang được chú trọng sử dụng và đem lại hiệu quả rất cao. NỘI DUNG 1. Một số vấn đề lý luận về thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: 1.1. Khái niệm chung: Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 đã nêu lên định nghĩa về văn bản quy phạm pháp luật như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc pợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định trong Luật ban hành văn bản pháp luật hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” Là một vấn đề quan trọng nên có rất nhiều quan điểm, những cách nhìn nhận khác nhau xoay quanh vấn đề thẩm tra và thẩm định. Tuy nhiên, ta có thể hiểu về chúng thông qua: Quy chế thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL ban hành kèm theo Quyết định số 05/2007/QĐ- TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng chính phủ đã định nghĩa hoạt động thẩm định dự thảo VB QPPL là hoạt động “xem xét, đánh giá về nội dung, hình thức của dự án, dự thảo nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của dự án, dự thảo trong hệ thống pháp luật”. Về vấn đề thẩm tra Từ điển Luật học định nghĩa: “Thẩm tra là việc xem xét lại kĩ lưỡng dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật hoặc một Ủy ban hữu quan của Quốc hội hay một Ủy ban lâm thời được Quốc hội chỉ định tiến hành trước khi trình UBTVQH. Cơ quan thẩm tra xem xét cả hình thức và nội dung nhưng tập trung chủ yếu vào xem xét sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp; đối tượng; nội dung, phạm vi và tính khả thi của dự án”. Như vậy, ta có thể hiểu trách nhiệm thẩm tra, thẩm định dự thảo VB QPPL là nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền trong việc xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan đối với dự thảo VB QPPL trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản (một khía cạnh của hoạt động quản lí nhà nước). Tham gia vào hoạt động này là các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 1.2. Chủ thể thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: Chủ thể thẩm tra dự thảo VB QPPL của các cơ quan nhà nước ở trung ương gồm: Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (căn cứ vào Điều 21 Luật tổ chức Quốc hội, khoản 1 Điều 41 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008…). Ở địa phương cơ quan thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp thuộc về các ban của Hội đồng nhân dân (quy định tại Điều 55 luật tổ chức hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004). Chủ thể có thẩm quyền tiến hành thẩm định dự thảo VB QPPL ở trung ương là Bộ tư pháp và tổ chức pháp chế của các bộ, ngành (quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008). Ở địa phương chủ thể có trách nhiệm thẩm định được giao cho cơ quan tư pháp trực thuộc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân- tương ứng với cấp tỉnh là Sở tư pháp, cấp huyện là Phòng tư pháp (quy định tại Điều 24 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND năm 2004, thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV…) Tùy thuộc vào từng trường hợp dự thảo có thể được thẩm định, thẩm tra một hoặc nhiều lần; có thể do một hoặc nhiều cơ quan cùng thực hiện; có thể tiến hành độc lập hay có sự phối hợp… 2. Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: 2.1. Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra Thẩm tra và thẩm định là những hoạt động tương tự về mặt chuyên môn nhưng chúng cũng những khác biệt: Xét về thời điểm tiến hành thẩm định được thực hiện trước thẩm tra trong quy trình ban hành VB QPPL. Hầu hết các dự thảo VB QPPL đều được thẩm định (trừ dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện và dự thảo VB QPPL của cấp xã)- riêng các dự án, dự thảo VB QPPL của Quốc hội, UBTVQH và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện còn được thanh tra bởi các cơ quan chuyên trách của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp. 2.1.1. Trách nhiệm thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 2.1.2. Trách nhiệm thẩm tra của Chính phủ: Trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật không quy định về việc thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật của Văn phòng chính phủ như một công đoạn bắt buộc và chính thức mà được coi như một công việc có tính nội bộ của chính phủ. Tuy nhiên, theo nghị định số 18/2003/NĐ- CP ngày 20/02/2003 của chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng chính phủ lại quy định thẩm tra như là nhiệm vụ thường xuyên của Văn phòng chính phủ. Điều 36 nghị định số 161/2005/NĐ- CP và Điều 16 quy chế làm việc của chính phủ ban hành kèm theo nghị định số 23/2003/NĐ- CP ngày 12/12/2003 cũng đề cập đến việc thẩm tra của Văn phòng chính phủ như một công việc có tính nội bộ. Theo đó, Văn phòng chính phủ chịu trách nhiệm thẩm tra về quy trình, hồ sơ thủ tục hành chính, tính hợp pháp, sự phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước và sự phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ; phân tích, tổng hợp có kiến đánh giá độc lập về nội dung của đề án, dự án để trình Chính phủ, Thủ tướng chính phủ xem xét quyết định. 2.1.3. Trách nhiệm thẩm tra của các ban thuộc Hội đồng nhân dân: Các dự thảo VB QPPL do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện xây dựng phải được ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra trước khi trình Hội đồng nhân dân. Ban của Hội đồng nhân dân thực hiện trách nhiệm thẩm tra theo quy trình, hoạt động và thời gian do pháp luật quy định. Sau khi hoàn thành báo cáo thẩm tra Ban thẩm tra có trách nhiệm gửi báo cáo này đến thường trực Hội đồng nhân dân trong thời hạn 7 ngày trước khi khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân. 2.2. Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm định 2.2.1. Trách nhiệm thẩm định của Bộ tư pháp: Một trong những chủ thể quan trọng nhất của khâu thẩm định dự thảo VB QPPL là Bộ tư pháp. Trách nhiệm của Bộ tư pháp trong việc thẩm định dự thảo VB QPPL được quy định cụ thể tại “Điều 41 Nghị định số 24/2009/NĐ- CP của Chính phủ”. Theo đó, Bộ tư pháp tiến hành thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị định trước khi trình Chính phủ. Tổ chức pháp chế bộ, ngành là chủ thể chịu trách nhiệm thẩm tra dự thảo, thông tư của bộ, cơ quan ngang bộ trước khi trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ kí ban hành. Đối với một số bộ, ngành tổ chức pháp chế còn thẩm định cả dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng chính phủ mà bộ, cơ quan ngang bộ được giao chủ trì soạn thảo trước khi các dự thảo văn bản này được trình lên Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ xem xét, quyết định trình dự thảo lên cơ quan có thẩm quyền. Trách nhiệm của chủ thể khi tiến hành thẩm định phải tập trung vào các nội dung như: sự cần thiết phải ban hành VB QPPL; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo văn bản; sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp, không trái với Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên kí kết; tính khả thi của văn bản; việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo, ngôn ngữ, kĩ thuật soạn thảo văn bản. 2.2.2. Trách nhiệm của cơ quan tư pháp trực thuộc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND 2004 quy định thẩm định là một khâu bắt buộc trong việc soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng VB QPPL của chính quyền địa phương. Hoạt động thẩm định của cơ quan tư pháp ở địa phương cũng tương tự như hoạt động thẩm định ở cấp trung ương. 2.2.3. Trách nhiệm chung: Trách nhiệm mà các chủ thể thẩm định, thẩm tra VB QPPL đều phải thực hiện đó là các chủ thể này phải viết báo cáo thẩm định, thẩm tra và gửi các báo cáo đó đến cơ quan chủ trì việc soạn thảo đúng thời hạn do pháp luật quy định, tạo điều kiện cho cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc chỉnh lý hoàn thiện dự thảo văn bản theo yêu cầu thẩm tran, thẩm định. Thực trạng thẩm tra, thẩm định dự thảo VB QPPL của các chủ thể trong thời gian qua mặc dù đạt được rất nhiều thành tựu nhưng vẫn còn những tồn tại, những yếu kém nhất định. Do đó cần phải có những giải pháp và phương hướng hoàn thiện phù hợp góp phần nâng cao năng lực quản lí nhà nước của các chủ thể có thẩm quyền. 3. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật – Nâng cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định, thẩm tra bằng những biện pháp cụ thể như: có quy định cụ thể chủ thể làm công tác phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định của mình; đảm bảo và tạo các điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, kinh phí, thông tin tư liệu, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật nghiệp vụ cho các chủ thể có trách nhiệm thẩm định, thẩm tra. + Trước hết cần sửa đổi nội dung thẩm tra, thẩm định cụ thể để tránh sự chồng chéo trong quá trình thực hiện hai công việc này. + Sửa đổi quy định về thời gian thẩm tra, thẩm định cho phù hợp với từng loại VB QPPL bởi có nhiều loại VB QPPL nên không thể quy định chung chung được. – Pháp luật cần quy định rõ giá trị pháp lý của báo cáo thẩm tra, thẩm định đối với cả hai chủ thể: cơ quan soạn thảo, cơ quan có thẩm quyền thông qua văn bản. KẾT LUẬN Nói tóm lại, thẩm tra, thẩm định dự thảo VB QPPL của các cơ quan có thẩm quyền là một giai đoạn quan trọng không thể thiếu trong quá trình ban hành VB QPPL. Tuy nhiên, thực tiễn ban hành VB QPPL trong thời gian qua cho thấy hoạt động thẩm định, thẩm tra tuy có những ưu điểm nhưng vẫn còn một số vướng mắc, chưa thực sự đạt được kết quả như mong đợi. Nhược điểm này xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan khác nhau nhưng đều đòi hỏi sự nhìn nhận một cách nghiêm túc từ các chủ thể có thẩm quyền cũng như các nhà nghiên cứu và thực thi pháp luật. Để từ đó có những biện pháp khắc phục hạn chế, phát huy ưu điểm mang lại hiệu quả cao hơn cho hoạt động này để xây dựng Việt Nam thành nhà nước pháp quyền trong tương lai. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008. Viện khoa học pháp lí- Bộ tư pháp, “Từ điển Luật học”, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2006. Viện khoa học pháp lí- Bộ tư pháp, chuyên đề “Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án, dự thảo văn bản QPPL”. Tạp chí thông tin khoa học pháp lý số 11/2007. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001. Nghị định số 24/2009/NĐ- CP của Chính phủ ban hành ngày 05/03/2009 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản QPPL. Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 05/2007/QĐ-TTG ngày 10/01/2007 ban hành quy chế thẩm định dự án, dự thảo VB QPPL. Nguyễn Hương Ly, Hoạt động thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản QPPL của cơ quan nhà nước ở trung ương. Khóa luận tốt nghiệp. Hà Nội, 2010. Cao Thị Thúy Hường, Hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong quá trình xây dựng ban hành VB QPPL ở Việt Nam hiện nay. Khóa luận tốt nghiệp. Hà Nội, 2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
Bài tập lớn học kỳ Xây dựng văn bản pháp luật hoạt động thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.doc
Bài Tập Lớn Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật
Đề: Giải thích rõ việc lựa chọn chủ thể ban hành, loại văn bản, căn cứ pháp lý và công việc sau:
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội.
I.Mở Đầu
Kỹ năng soạn thảo văn bản là một kỹ năng rất cần thiết và quan trọng trong quá trình soạn thảo văn bản. Để một văn bản được ban hành một cách chính xác và đầy đủ thì văn bản được ban hành không những phải đảm bảo đúng thẩm quyền, nghĩa là nội dung và quyền hạn của văn bản phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, hình thức văn bản đúng với hình thức của từng loại văn bản pháp luật. Mà hình thức của văn bản cũng phải tuân theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo tính thống nhất về mặt pháp chế của văn bản và đảm bảo về phạm vi hiệu lực của văn bản. Để cụ thể hơn về vấn đề này em xin đi sâu vào một văn bản thực tế với đề tài: ” Giải thích rõ việc lựa chọn chủ thể ban hành, loại văn bản, căn cứ pháp lý và công việc sau:
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội”
II.Giải thích
1.Về việc lựa chọn loại văn bản ban hành
Đối với đề tài này thì loại văn bản pháp luật được sử dụng để chủ thể có thẩm quyền giải quyết việc nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội là chỉ thị.
Chỉ thị là văn bản pháp luật mang tính đặc thù, truyền đạt quyết định hành chính của chủ thể ban hành tới đối tượng tiếp nhận có mối quan hệ về tổ chức với chủ thể ban hành.Chỉ thị do Thủ trưởng các cơ quan thuộc nhà nước ban hành hoặc Hội đồng nhân dân các cấp ban hành. Chỉ thị dùng để đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp quản lý, chỉ đạo công việc, giao nhiệm vụ cho các bộ phận dưới quyền.
Việc lựa chọn loại văn bản ban hành có tính quyết định đến nội dung của văn bản được ban hành. Đối với chỉ thị về việc nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội là loại văn bản áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo kết cấu nghị luận. Mệnh lệnh trong các nội dung chính của văn bản kết cấu nghị luận thực chất là các giải pháp được đề ra để khắc phục những bất cập của công việc trong cuộc sống. Nội dung của văn bản này ban hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội, hay nói cách khác văn bản này chỉ có hiệu lực ban hành trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Riêng với chủ tịch UBND các cấp thì việc ra chỉ thị sẽ đảm bảo sự thống nhất giữa thủ tục thông qua văn bản với hình thức văn bản.
Theo Điều 14 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân 2004 về nội dung chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh:
” Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được ban hành để quy định biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động, đôn đốc và kiểm tra hoạt động của cơ quan, đơn vị trực thuộc và của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp dưới trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của Hội đồng nhân dân cùng cấp và quyết định của mình.”
2.Về việc lựa chọn chủ thể ban hành
Hiện nay, thẩm quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật được quy định trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật, pháp lệnh về quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể… Việc xác định đúng thẩm quyền giải quyết công việc phát sinh theo quy định của pháp luật hiện hành có ý nghĩa rất quan trọng vì nếu văn bản áp dụng pháp luật được ban hành trái thẩm quyền thì sẽ không có hiệu lực pháp luật và sẽ bị cấp có thẩm quyền hủy bỏ.
Thẩm quyền ban hành chỉ thị do pháp luật quy định thuộc về Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm soát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp ban hành. Như vậy, về thẩm quyền ban hành chỉ thị thuộc về hầu hết các cơ quan hoạt động theo nguyên tắc thủ trưởng ( trừ các cơ quan có quy mô nhỏ) như: thủ tướng chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc chính phủ…Ban hành để giao nhiệm vụ cho các cơ quan đơn vị trực thuộc.
Nội dung của văn bản cần giải quyết chỉ diễn ra trên địa bàn thành phố Hà Nội nên chủ thể ban hành văn bản ở đây là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Thẩm quyền ban hành văn bản áp dụng phải đảm bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả những công việc phát sinh trong cuộc sống.
3.Về việc lựa chọn căn cứ pháp lý.
Căn cứ pháp lý được xem như một công cụ hữu hiệu xuyên suốt quá trình kiểm tra văn bản PL, là cơ sở để kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản. căn cứ pháp lý có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản PL. Đây chính là yêu cầu viện dẫn quyền chủ thể ban hành và nội dung của văn bản.
Do pháp luật không quy định cụ thể nên việc viện dẫn căn cứ pháp lý vào văn bản áp dụng cần dựa vào những cơ sở lý luận nhất định.
-Cơ sở pháp lý của văn bản áp dụng pháp luật chỉ là văn bản đang có hiệu lực pháp luật vào thời điểm ban hành, trừ trường hợp đặc biệt.
Chỉ thị nâng cao hiệu quả quả công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội có viện dẫn căn cứ pháp lý từ những chỉ thị sau:
-Chỉ thị số 14/CT-UBND về việc tăng cường công tác đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội;
-Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Chiến lược Bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới”;
-Chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo 138/CP tại Thông báo số 306/TB-VPCP ngày 31/7/2014;
-Chương trình số 05-CTr/TU ngày 19/5/2011 của Thành ủy (khóa XV) về “Tăng cường Quốc phòng – An ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở Thủ đô giai đoạn 2011-2015”;
-Chỉ thị số 21, ngày 05/12/2013 của Thành ủy về “Nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an Thủ đô năm 2014”.
III.Soạn thảo chỉ thị
Về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn Thành phố
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức quần chúng và nhân dân, công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô đã đạt được những kết quả quan trọng; an ninh quốc gia được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được đảm bảo, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng, ngoại giao trên địa bàn Thủ đô.
Bên cạnh những mặt tích cực đã phát sinh nhiều địa bàn phức tạp về an ninh trật tự, bộc lộ những bất cập trong công tác quản lý. Cụ thể: tình hình khiếu kiện, tập trung đông người; các loại tội phạm và tệ nạn xã hội chưa giảm, có chiều hướng gia tăng, đã xảy ra một số vụ việc nghiêm trọng, đối tượng phạm tội manh động, ngang nhiên, côn đồ, hung hãn, gây dư luận xấu trong nhân dân; công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị vẫn còn những hạn chế, bất cập…
Tình hình trên là do những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn ra nhanh chóng, hình thành nhiều khu đô thị mới, dân số tăng lên hơn 7,2 triệu người, chưa kể khoảng 2 triệu người đang học tập, làm việc tại Thủ đô không có hộ khẩu thường trú dẫn đến phát sinh nhiều địa bàn phức tạp về an ninh trật tự, bộc lộ những bất cập trong công tác quản lý. Các cấp chính quyền trên địa bàn Thủ đô chưa thực sự quan tâm lãnh đạo nên chưa huy động được sức mạnh tổng hợp trong công tác phòng chống tội phạm; lực lượng phòng chống tội phạm ở một số địa bàn còn yếu; công tác quản lý xã hội, công tác tuyên truyền về pháp luật, về đạo đức lối sống và vận động nhân dân còn nhiều hạn chế.
Để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô, ngăn chặn, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, tạo ra môi trường lành mạnh, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội. Chủ tịch UBND Thành phố yêu cầu Công an Thành phố, Bộ Tư lệnh Thủ đô, Giám đốc các Sở, Ban, Ngành, đoàn thể, Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã triển khai thực hiện tốt một số nội dung công tác sau:
1.Tiếp tục triệt hóa, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ đạo của Đảng, nhà nước về công tác quốc phòng quân sự địa phương, nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; thực hiện có hiệu quả : Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Chiến lược Bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới”; Chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo 138/CP tại Thông báo số 306/TB-VPCP ngày 31/7/2014; Chương trình số 05-CTr/TU ngày 19/5/2011 của Thành ủy (khóa XV) về “Tăng cường Quốc phòng – An ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở Thủ đô giai đoạn 2011-2015”; Chỉ thị số 21, ngày 05/12/2013 của Thành ủy về “Nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an Thủ đô năm 2014”;
2.Lãnh đạo tổ chức diễn tập Thành phố Hà Nội và các quận, huyện, thị xã năm 2015 đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Thông qua diễn tập nhằm nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý điều hành các cấp chính quyền, chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các sở, ban ngành đoàn thể khi có tình huống xảy ra. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng diễn tập chiến đấu trị an xã phường, thị trấn theo hướng sát với tình hình, nhiệm vụ của từng cơ sở.
3.Công an Thành phố chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, Công an các quận, huyện, thị xã là lực lượng nòng cốt trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn Thành phố, tăng cường công tác nắm, dự báo tình hình, kịp thời tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ đạo của Trung ương, Thành phố về công tác đảm bảo an ninh, trật tự tại địa bàn, đơn vị, lĩnh vực được phân công theo dõi, cụ thể:
– Tập trung đấu tranh, trấn áp, kiên quyết không để tội phạm hoạt động phức tạp, lộng hành; rà soát, đấu tranh quyết liệt nhóm tham gia diễn đàn phản động, có hoạt động tuyên truyền, chống phá ta; các băng ổ, nhóm tội phạm hoạt động kiểu “xã hội đen”, đâm thuê, chém mướn, chống người thi hành công vụ, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm kinh tế, tham nhũng, tội phạm ma túy, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm mua, bán người; chú ý đấu tranh có hiệu quả hơn tội phạm về môi trường và buôn lậu, gian lận thương mại, trốn lậu thuế, sản xuất hàng giả và kinh doanh trái phép…;
– Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự, nhất là quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý người nước ngoài; quản lý các cơ sở kinh doanh, dịch vụ có điều kiện về an ninh trật tự; quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; quản lý, sử dụng pháo… Tổ chức tốt việc tiếp nhận, quản lý, giáo dục người được đặc xá, tha tù, người đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng trở về địa phương tái hòa nhập cộng đồng. Thực hiện tốt công tác vận động toàn dân giao nộp vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Tăng cường công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, tiếp tục làm giảm tai nạn, phòng, chống ùn tắc giao thông, đua xe trái phép…;
– Quyết liệt thực hiện có hiệu quả đợt thi đua đặc biệt “90 ngày đêm cán bộ, chiến sỹ Công an Thủ đô thi đua lập thành tích kỷ niệm 60 năm ngày Giải phóng Thủ đô” từ ngày 16/7/2014 đến 15/10/2014.
Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho các đối tượng, kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục quốc phòng, an ninh với tuyên truyền, giáo dục pháp luật, lịch sử, truyền thống nhằm tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn dân với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Thủ đô, góp phần làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
5.Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện công tác đảm bảo an ninh, trật tự, phòng chống tội phạm, gắn với các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương mình; chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch, biện pháp cụ thể chỉ đạo các ngành, đoàn thể, UBND các xã, phường, thị trấn thực hiện. Nơi nào để tội phạm lộng hành, kéo dài phức tạp, nơi nào có dấu hiệu bảo kê, bao che, dung túng cho tội phạm thì người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền và Thủ trưởng cơ quan Công an phải chịu trách nhiệm.
Yêu cầu các cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm Chỉ thị này; giao Công an Thành phố phối hợp với Văn phòng UBND Thành phố theo dõi, kiểm tra việc thực hiện
Hoàn Thiện Quy Định Của Pháp Luật Về Thẩm Định Dự Thảo Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Hội Đồng Nhân Dân Cấp Tỉnh
Hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
ThS. Nguyễn Thị Ngọc Mai
Khoa Luật Hành chính Nhà nước, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Theo quy định của pháp luật, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bằng hình thức nghị quyết. Thực tiễn cho thấy, hoạt động xây dựng, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Từ khóa: Hội đồng nhân dân, thẩm định, dự thảo nghị quyết, báo cáo thẩm định
Abstract: Under the applicable legal ducuments, the provincial People’s Council has the authority to issue legal normative documents in the form of resolutions. The practical perforcements show that the issuance of resolutions by the provincial People’s Council in recent years has reached achievements and positive results. However, besides the positive aspects, there still certain shortcomings that affect the quality and effectiveness of enforcements of the resolutions of the People’s Council.
Keywords: People’s Councils, appraisal, draft resolutions and appraisal reports
1. Thực trạng hoạt động thẩm định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo số liệu thống kê của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), trong năm 2017, cơ quan này đã tiến hành kiểm tra 5.104 văn bản của Hội đồng nhân dân(HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, phát hiện 131 văn bản trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền cũng như nhiều văn bản sai sót về căn cứ, thể thức, kỹ thuật trình bày [1] . Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của cơ quan tư pháp địa phương chưa hoàn thiện.
có kỳ họp, HĐND tỉnh thông qua 5 – 6 nghị quyết nhưng chỉ có một dự thảo được Sở Tư pháp thẩm định. Hoặc có khi, dự thảo văn bản của UBND tỉnh nhưng văn bản thẩm định của Sở Tư pháp lại gửi cho Sở Nội vụ, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội yêu cầu hiệu chỉnh để thông qua HĐND tỉnh… Nói chung, việc thiếu văn bản thẩm định và chất lượng thẩm định của Sở Tư pháp là vấn đề thường xuyên được đặt ra tại các kỳ họp của HĐND. Khi các Ban của HĐND tỉnh yêu cầu thẩm tra thì cơ quan soạn thảo lại đề nghị thông cảm, sẽ bổ sung...”
Thực tiễn thẩm định dự thảo nghị quyết thời gian qua cho thấy, công tác này chưa được thực hiện nghiêm túc ở nhiều địa phương, vẫn còn tình trạng ban hành nghị quyết nhưng bỏ qua khâu thẩm định của cơ quan tư pháp. Chẳng hạn ở tỉnh Gia Lai, “ [2] . Hoặc ở tỉnh Bình Định, tổng số văn bản được ban hành là 1.027 nhưng chỉ có 537/1.027 văn bản được thẩm định, số văn bản chưa qua thẩm định chiếm 47,7%; con số này ở Quảng Ngãi là 421/889 văn bản được thẩm định; Thừa Thiên – Huế chỉ có 634/1462 văn bản được thẩm định [3] . Năm 2017, qua rà soát 728 VBQPPL của HĐND, UBND TP. Hồ Chí Minh còn hiệu lực thì phát hiện có 52 VBQPPL có dấu hiệu vi phạm, trong đó việc vi phạm lớn nhất là các văn bản này không được thẩm định, không được lấy ý kiến của đối tượng được điều chỉnh trước lúc ban hành [4] . Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ ý thức chưa coi trọng vai trò “gác cổng pháp lý” của cơ quan tư pháp địa phương của các cơ quan chủ trì soạn thảo cũng như từ sự chưa hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
1.1.Nội dung và phạm vi thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh
Theo quy định của pháp luật, Sở Tư pháp là cơ quan có trách nhiệm thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh trong trường hợp dự thảo do UBND cùng cấp trình. Căn cứ vào tính chất, nội dung của dự thảo nghị quyết, việc thẩm định được thực hiện theo một trong các hình thức sau:
1.2.Hồ sơ và thời hạn thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh
1.3 Về giá trị của Báo cáo thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh
Kết quả thẩm định của cơ quan tư pháp phải được thể hiện bằng hình thức nhất định. Trước đây, cả Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 đều không quy định về hình thức, cơ cấu của văn bản thẩm định. Vì vậy, trong thực tiễn, có địa phương khi thẩm định sử dụng hình thức công văn thẩm định nhưng cũng có địa phương dùng hình thức báo cáo thẩm định. Sự không thống nhất này dẫn đến tình trạng vẫn có sự sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày trong văn bản thẩm định, từ đó làm ảnh hưởng tới “uy tín” của văn bản thẩm định. Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 ra đời đã xác định rõ kết quả thẩm định của cơ quan tư pháp được thể hiện dưới hình thức báo cáo – Báo cáo thẩm định.
Một trong những khó khăn chung gặp phải trong công tác thẩm định mà các địa phương đều chia sẻ đó là vấn đề về nhân lực. Ngoài những khó khăn về nhân lực, trong công tác thẩm định còn gặp một “rào cản” nữa ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định – đó chính là nguồn tài chính chi cho công tác xây dựng, ban hành VBQPPL nói chung và công tác thẩm định nói riêng. Hiện nay, nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng pháp luật, còn quá thấp so với yêu cầu của công việc [11] . Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ Tài chính quy định mức chi cho công tác xây dựng VBQPPL của HĐND cấp tỉnh như sau: xây dựng đề cương chi tiết dự thảo văn bản mới hoặc thay thế là 950.000 đồng/đề cương; đề cương văn bản sửa đổi, bổ sung mức chi 650.000 đồng/đề cương; soạn thảo văn bản mới hoặc thay thế: mức chi 3.200.000 đồng/dự thảo văn bản còn văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều: mức chi 2.700.000 đồng/dự thảo văn bản; mức cho cho công tác thẩm định là 500.000 đồng/báo cáo thẩm định [12] . Với khoản kinh phí này, Sở Tư pháp không thể tổ chức các hoạt động thẩm định có chất lượng, đặc biệt đối với các văn bản thực hiện quy trình xây dựng chính sách phải thực hiện nhiều hoạt động phức tạp đòi hỏi tốn nhiều nguồn lực về tài chính cũng như con người hoặc trong trường hợp phải thành lập hội đồng tư vấn thẩm định. Kết quả khảo sát ở một số tỉnh, thành như Tuyên Quang, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh cho thấy, chỉ có từ 23%- 32% cán bộ được khảo sát cho rằng kinh phí thẩm định đã đáp ứng được các công việc cần thiết của công tác thẩm định [13] . Hơn nữa, Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ Tài chính quy định mức chi chung cho công tác xây dựng VBQPPL áp dụng trên phạm vi cả nước, tất cả các tỉnh, thành đều áp dụng mức chi như nhau là không hợp lý trong khi điều kiện kinh tế – xã hội là không hoàn toàn giống nhau. Điều này cũng có ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng thẩm định nói riêng và chất lượng nghị quyết nói chung.
2. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thẩm định nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Thứ nhất, cần bổ sung yêu cầu thẩm định đối với tất cả các dự thảo nghị quyết do các chủ thể có thẩm quyền trình HĐND cấp tỉnh.
Thứ ba, về hồ sơ và thời gian thẩm định.
Để đảm bảo chất lượng thẩm định, các cơ quan chủ trì soạn thảo cần phải chuẩn bị hồ sơ đầy đủ theo quy định của pháp luật, trong đó ngoài việc đảm bảo chất lượng của dự thảo tờ trình, cơ quan chủ trì soạn thảo nghị quyết cần quan tâm đến chất lượng của Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; nghiên cứu bổ sung vào hồ sơ thẩm định thêm một loại tài liệu nữa là “Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo nghị quyết và báo cáo đánh giá tác động của dự thảo nghị quyết”. Nếu các tài liệu này được cung cấp đầy đủ sẽ giúp cho cơ quan thẩm định có được cái nhìn tổng quan hơn về dự thảo để từ đó có thể đưa ra các đánh giá khách quan, phù hợp.
Sửa đổi Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 theo hướng tăng thời gian thẩm định đối với những dự thảo nghị quyết có nội dung phức tạp, phạm vi điều chỉnh rộng, bắt buộc phải thành lập hội đồng tư vấn thẩm định lên 30 ngày để đảm bảo cơ quan thẩm định có đủ thời gian cần thiết tiến hành công tác thẩm định đảm bảo chất lượng. Đồng thời, cần quy định thống nhất cách tính thời hạn là theo ngày làm việc hay theo ngày lịch thông thường. Bởi lẽ nếu tính theo ngày lịch thông thường có thể dẫn tới thời gian thẩm định còn rút ngắn hơn. Ví dụ, cơ quan chủ trì soạn thảo gửi đủ hồ sơ thẩm định đến Sở Tư pháp vào ngày 03/5/2019 (thứ Sáu) thì có nghĩa là đến ngày 12/5/2019 (ngày Chủ nhật), Sở Tư pháp phải gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan chủ trì soạn thảo. Như vậy, thực tế cơ quan thẩm định chỉ có 06 ngày làm việc (tính cả ngày nhận đủ hồ sơ) để tiến hành thẩm định. Do đó, chúng tôi kiến nghị thời hạn trong luật sẽ được tính thống nhất theo ngày làm việc.
Thứ tư, về giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, cơ quan chủ trì soạn thảo buộc phải tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm định. Tuy nhiên, pháp luật cần quy định cụ thể giá trị pháp lý của báo cáo thẩm định ở mức độ phù hợp. Chúng tôi cho rằng, trong báo cáo thẩm định, đối với những ý kiến thẩm định chung như đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo nghị quyết trong hệ thống pháp luật… cơ quan chủ trì soạn thảo bắt buộc phải tiếp thu nhưng còn đối với những vấn đề mang tính chuyên môn thì cơ quan soạn thảo vẫn có thể “bảo lưu” mà không bắt buộc phải chỉnh lý theo ý kiến thẩm định. Đồng thời, để hạn chế phần nào những mâu thuẫn có thể xảy ra, khi tiến hành thẩm định, cơ quan thẩm định nên chủ động trao đổi ý kiến với cơ quan soạn thảo trước khi đưa ra ý kiến thẩm định, từ đó giảm bớt các khúc mắc và mâu thuẫn có thể phát sinh.
Thứ năm, về các điều kiện đảm bảo cho công tác thẩm định dự thảo nghị quyết.
Công tác thẩm định giữ vai trò quan trong trong quy trình xây dựng, ban hành nghị quyết của HĐND cấp tỉnh nói riêng và quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của chính quyền địa phương nói chung nên cần nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác quan trọng này. Cụ thể, ngoài việc tăng thêm “biên chế”, cần phải được chuyên nghiệp hóa hoạt động thẩm định; nghiên cứu, xây dựng chức danh cho cán bộ làm công tác thẩm định như “thẩm định viên” với các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể, thủ tục công nhận/bổ nhiệm… để đảm bảo tính chuyên nghiệp, tính độc lập chịu trách nhiệm trong thẩm định, đồng thời để họ có thể nhận được mức phụ cấp tương xứng, từ đó khuyến khích sự nhiệt tình của họ trong công việc.
Ngoài ra, để góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự thảo nghị quyết, cần tăng mức kinh phí dành cho công tác xây dựng, ban hành VBQPPL, trong đó có công tác thẩm định dự thảo văn bản để có thể đáp ứng được những “nhu cầu cần thiết” cho công tác này. Mức chi có thể căn cứ vào tính chất của từng loại văn bản (mức độ đơn giản – phức tạp, phạm vi ảnh hưởng nhỏ hay lớn, nhu cầu thành lập hội đồng thẩm định, …) và điều kiện kinh tế – xã hội ở từng địa phương (hoàn toàn từ ngân sách nhà nước hoặc có thể huy động thêm các nguồn lực xã hội khác để phục vụ cho công tác thẩm định)./.
Báo cáo công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ giải pháp năm 2018, tháng 4/2018, tr. 4.[1] Bộ Tư pháp,tháng 4/2018, tr. 4.),Cần thẩm định VBQPPL theo quy định, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, [2] Phan Hồng Mẫn(Phó trưởng Ban Pháp chế HĐND tỉnh Gia LaiBáo điện tử Đại biểu nhân dân, http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=9405 (truy cập 29/2/2019).Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL do cơ quan tư pháp địa phương thực hiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 5, tr. 22.[3] Đoàn Thị Tố Uyên (2011),, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 5, tr. 22.“TP HCM: Nhiều văn bản quy phạm pháp luật không qua thẩm định”, [https://baomoi.com/tp-hcm-nhieu-van-ban-quy-pham-phap-luat-khong-qua-tham-dinh/c/22591950.epi] (truy cập ngày 10/2/2019)[4] Báo mới,[https://baomoi.com/tp-hcm-nhieu-van-ban-quy-pham-phap-luat-khong-qua-tham-dinh/c/22591950.epi] (truy cập ngày 10/2/2019)
[5] Xem Điều 58, Điều 92, Điều 98, Điều 102 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.[6] Bộ Tư pháp – Dự án phát triển lập pháp quốc gia tại Việt Nam (NLD), Báo cáo khảo sát đánh giá thi hành luật ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 và Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, tr. 67.[7] Hoàng Minh Hà (2011), “Luận bàn về tiêu chí thẩm định tính khả thi của dự thảo VBQPPL”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề tháng 5-2011, tr. 14.[8] Bộ Tư pháp (2018), “Báo cáo số 60/BC-BTP ngày 12/3/2018 của Bộ Tư pháp phục vụ hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp thứ 22 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội”, tr. 8.Báo cáo tổng kết thi hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 và Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004, Hà Nội, tháng 11/2013[9] Bộ Tư pháp (2013),, Hà Nội, tháng 11/2013Hoàn thiện pháp luật về thẩm định dự thảo VBQPPL của cơ quan tư pháp địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19 (156), tr. 20.[10] Đinh Công Tuấn (2009),”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19 (156), tr. 20.Bản tổng hợp tiếp nhận và trả lời kiến nghị của các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đối với công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ Tư pháp từ đầu năm 2018 đến nay, (tháng 7/2018)[11] Bộ Tư pháp,, (tháng 7/2018)[12] Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật.Báo cáo khảo sát đánh giá thi hành Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 và Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, tr. 79.[13] Bộ Tư pháp và Dự án phát triển lập pháp quốc gia (NLD),, tr. 79.[14] Hiện nay Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL tại khoản 4 Điều 49 chỉ quy định chung về trách nhiệm của Sở Tư pháp tham gia vào các hoạt động của cơ quan chủ trì soạn thảo trong quá trình soạn thảo.
Điểm Mới Về Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật
Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được xây dựng trên cơ sở hợp nhất hai luật, đó là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2004 để áp dụng thống nhất việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên phạm vi cả nước. Luật mới này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016, gồm 17 chương, 173 điều với nhiều điểm mới quan trọng; cụ thể như về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có sự thay đổi so với luật cũ:
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã xác định lại nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Cụ thể:
– Đối với luật, nghị quyết của Quốc hội:
Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã quy định rõ ràng, cụ thể những nội dung Quốc hội phải ban hành luật và những nội dung Quốc hội ban hành nghị quyết. Theo đó, Quốc hội ban hành luật để quy định về tổ chức, bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…Quốc hội ban hành nghị quyết để quy định việc thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…
– Đối với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Nếu như Khoản 1 Điều 12 quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008:”Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật”, thì nay, Điều 16 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã không còn quy định việc pháp lệnh sau một thời gian thực hiện phải trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật nữa. Đồng thời, bổ sung một số nội dung Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết gồm: Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội; Bãi bỏ pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội…
– Đối với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước:
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định:
“Điều 13. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định”
Còn Luật mới quy định tại Điều 17 như sau:
“Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để quy định:
1. Tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được;
2. Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước”
Như vậy, so với Luật năm 2008 thì Luật mới năm 2015 đã có quy định rõ ràng hơn về thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
– Đối với nghị định của Chính phủ:
Theo Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015:
“Chính phủ ban hành nghị định để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
3. Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy banthường vụ Quốc hội”
– Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
“Điều 27. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2. Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
3. Biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;
4. Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Điều 28. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2. Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;
3. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương”.
Ngoài ra, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 cũng quy định rõ ràng hơn thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước tại Điều 17; bổ sung một số nội dung Chính phủ ban hành Nghị định tại Điều 19; giới hạn nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số chủ thể như Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 18). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 25), Hội đồng nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã (Điều 30).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài Tập Lớn Học Kỳ Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật Hoạt Động Thẩm Định, Thẩm Tra Dự Thảo Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!