Cập nhật nội dung chi tiết về 100 Tác Giả Nổi Bật Trong Nền Văn Học Trung Đại Việt Nam mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Văn học trung đại Việt Nam trải qua 10 thế kỷ (Từ thế kỷ 10 – thế kỷ 19) với rất nhiều tác giả nổi tiếng và quen thuộc như: Bà huyện Thanh Quan, Lê Thánh Tông, Chu Văn An, Nguyễn Khuyến,… ảnh hưởng lớn đến nền văn học nước nhà. Cùng Sách Văn Học điểm qua 100 tác giả nổi bật trong nền Văn học trung đại Việt Nam.
ĐỒNG KIÊN CƯƠNG (7.5.1284 – 3.3.1330): Đạo hiệu là Pháp Loa, thiền sư, nhà thơ, quê châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là ông Tổ thứ hai dòng Thiền Trúc Lâm. Ông biên soạn và chú giải nhiều tác phẩm Phật học như Tham thiền chỉ yếu; Phát nguyện văn; Thượng sĩ ngữ lục; Thạch thất mị ngữ; hiện còn lại hai bài thơ Nhập tục luyến thanh và Thị đệ tử.
NGUYỄN MIÊN TRINH (03.02.1820 – 18.11.1897): Nhà thơ, con thứ 11 của vua Minh Mạng, tước Tuy Lý vương. Tác phẩm chính: Vỹ Dã hợp tập; Nữ phạm diễn nghĩa từ . Ông cùng Miên Thẩm tổ chức Tùng Vân thi xã.
NGUYỄN MIÊN THẨM (11.12.1819 – 30.3.1870): Nhà thơ, quê kinh đô Huế, con thứ 10 vua Minh Mạng, tước Tùng Thiện Vương. Tác phẩm: Thương Sơn thi tập; Thương Sơn từ tập; Thương Sơn thi thoại; Thương Sơn văn di; Thương Sơn ngoại tập; Nạp bị văn tập; Học giá chí; Thức cốc thiên; Nam cầm phổ; Lịch đại thi nhân tiểu sử; Nữ phạm diễn nghĩa từ v.v.
TRẦN ANH TÔNG (25.10.1276 – 21.4.1320): Tên thật Trần Thuyên, là nhà vua thứ tư của nhà Trần 21 năm (1293-1314) và làm Thái thượng hoàng 6 năm. Tác phẩm: Thuỷ vân tuỳ bút ngự tập; Hiệu đính công văn cách thức; Pháp sự tân văn; 5 bài thơ chép trong Trần triều thế phả hành trạng; 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục; Dược thạch châm.
TRÍ BẢO THIỀN SƯ (? – 19.5.1190): Họ Nguyễn, không rõ tên, là cậu ruột danh nhân Tô Hiến Thành, người Ô Diên, đất Vĩnh Khang, nay thuộc huyện Đan Phượng, Hà Nội, ông ngộ đạo, giảng kinh sách cho nhiều đệ tử. Tác phẩm còn lại: Bài kệ về tri thức, in trong tập Thiền uyển tập anh ngữ lục
PHAN HUY CHÚ (1782 – 28.5 – 1840): Nhà thơ, nhà sử học Việt Nam. Công trình nổi tiếng nhất của ông là Lịch triều hiến chương loại chí gồm 49 quyển chia làm 10 chí như Dư địa chí, Hình luật chí, Văn học chí…, có thể coi như bộ Bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có Hoàng Việt địa dư chí và các tập thơ văn là Hoa thiều ngâm lục; Dương trình kí kiến.
NGUYỄN MIÊN BỬU (30.5.1820 – 08.3.1854): Nhà thơ, con thứ 12 vua Minh Mạng, tước Tương An Quận vương. Cùng với 2 anh Miên Thẩm, Miên Trinh lập Tùng Vân thi xã. Các tác phẩm chính: Khiêm Trai thi tập (14 quyển); Khiêm Trai văn tập (2 quyển), ông còn viết nhiều thơ Nôm nhưng thất lạc hầu hết.
PHAN VĂN TRỊ (1830 – 22.6.1910): Nhà thơ, chí sĩ, quê huyện Bảo An, tỉnh Gia Định, nay thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Đậu Cử nhân nhưng không chịu ra làm quan, mà mở trường dạy học. Tác phẩm: Thơ tự thuật (Nôm), và còn gần 100 bài thơ khác như Con mèo; Cái cối xay; Hột lúa; Con rận, nổi tiếng với chùm họa lại 10 bài thơ của Tôn Thọ Tường.
HOÀNG KẾ VIÊM (21.7.1820 (Âl.) – 1909): Còn có tên là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, nhà văn, danh thần triều Nguyễn, quê phủ (nay là huyện) Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông làm quan đến chức Thượng thư bộ Công, Thái tử Thiếu bảo sung đại thần viện Cơ mật. Tác phẩm: Phê thi trần hoàn; Tiên công sự tích biệt lục; Khôn y lục; Bát tiên công gia huấn từ; Chi chi thi thảo; Vân vân văn tập; An phụ trấn lược. đến chức Thượng thư bộ Công, Thái tử Thiếu bảo sung đại thần viện Cơ mật. Tác phẩm: Phê thi trần hoàn; Tiên công sự tích biệt lục; Khôn y lục; Bát tiên công gia huấn từ; Chi chi thi thảo; Vân vân văn tập; An phụ trấn lược.
LÝ THÁI TÔNG (29.7.1000 – 1054): Tên thực là Lý Phật Mã, sau đổi là Lý Đức Chính, con Thái Tổ Lý Công Uẩn, nối ngôi 27 năm, miếu hiệu là Thái Tông. Ông là vị hoàng đế sáng suốt, tinh thông Phật học. Tác phẩm còn lại: Hình thư (sử, 3 quyển), một bài kệ chép trong Thiền uyển tập anh ngữ lục.
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG (1226? – 03.9 (20.8 âl).1300): Tên thật là Trần Quốc Tuấn, danh tướng trong lịch sử Việt Nam, nhà văn chính luận với áng Hịch tướng sĩ bất hủ, quê ở phủ Thiên Trường (nay là tỉnh Nam Định. Ông cũng là tác giả bộ Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư (đã thất lạc).
TRẦN MẠNH (04.9.1300 – 10.3.1357): Nhà thơ, vua thứ 5 nhà Trần, miếu hiệu là Minh Tông, sinh tại Thăng Long, quê phủ Thiên Trường, Nam Định. Ông ở ngôi 15 năm, làm Thái thượng hoàng 28 năm. Tác phẩm: Minh Tông thi tập, bị thất lạc nhiều, nay chỉ còn lại khoảng 25 bài, được chép trong Việt âm thi tập.
TRẦN TẾ XƯƠNG (10.8.1870 – 29.01.1907): Tên khai sinh là Trần Duy Uyên, sau đổi thành Trần Cao Xương, rồi Trần Tế Xương, nhà thơ trào phúng xuất sắc, nổi tiếng với tên gọi Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Thơ ông in rải rác trên các báo, sau này được tập hợp trong Thơ Trần Tế Xương.
NGUYỄN DU (03.01.1766-(1765?) (16?)18.9.1820): Nhà thơ. Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là Danh nhân Văn hóa thế giới. Tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán Truyện Kiều; Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; Văn tế thập loại chúng sinh; Thanh Hiên thi tập; Bắc hành tạp lục….
TRẦN THÁNH TÔNG (25.9.1240 – ?.6.1290): Tên thật là Trần Hoảng, làm vua 21 năm, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Tác phẩm: Cơ cừu lục; Di hậu lục; Hoàng tông ngọc điệp; Trần Thánh – tông thi tập.
CHÂN KHÔNG THIỀN SƯ (? – 05.10.1100): Tên thật là Vương Hải Thiềm, quê làng Phù Đổng huyện Tiên Du, Bắc Ninh, nay thuộc Hà Nội. Ông làu thông sử sách, nghiên cứu đạo Phật một cách uyên thâm, giảng kinh Pháp hoa trong cung vua Lý Nhân Tông. Tác phẩm còn lại: một bài kệ Diệu bản.
TRẦN HOẢNG (13.10.1240 – 03.6.1290): Nhà thơ, vua thứ hai triều Trần, quê phủ Thỉên Trường nay thuộc huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba. Tác phẩm: Di hậu lục; Cơ cầu lục; Thiền tông liễu ngộ ca; Phóng ngưu; Chỉ giá minh. Đáng chú ý nhất là bài Hạnh Thiên Trường hành cung.
NGÔ THÌ SĨ (15.7.1726 – 22.10.1780): Nhà thơ, nhà sử học, tự Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong, quê huyện Thanh Oai nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội. Ông là cha của Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương đều là những danh sĩ, nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm: Việt sử tiêu án; Anh ngôn thi tập; Quan lan thi tập; Thanh động tập; Khuê ai lục; Cách tệ sách…
MẠC THIÊN TÍCH (19.4.1706 – 01.11.1780): Nhà thơ, đại quan thời chúa Nguyễn, tước Tông Đức hầu. Là người học rộng, có tài văn thơ, ông đã lập thi xã Chiêu Anh các. Tác phẩm: Hà Tiên thập vịnh; Thụ Đức hiên tứ cảnh; Hà Tiên quốc âm thập vịnh; Lư Khê nhàn điếu.
LÊ HỮU TRÁC (12.11.1720(*) – 1791): Còn có tên là Lê Hữu Huân, hiệu Hải Thượng Lãn Ông, danh Nho và danh y, quê ở Đường Hào, tỉnh Hải Dương (nay là huyện Yên Mỹ, Hưng Yên), nhưng phần lớn cuộc đời sống ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông đã xây dựng được một nền y học dân tộc toàn diện về lý luận, phương pháp điều trị, cách dùng dược vật Việt Nam. Tác phẩm: Thượng kinh ký sự; Y lý thâu nhàn; Hải Thượng y tông tâm lĩnh; Y hải câu nguyên…
ĐẶNG XUÂN BẢNG (18.7.1828 – 07.12.1910): Nhà văn, dịch giả, nhà sử học, quê phủ Xuân Trường, nay là huyện Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Định. Ông có khối lượng trước tác khá lớn: về sử học: Sử học di khảo; Việt sử cương mục tiết yếu,… về văn học: Tuyên Quang tỉnh phú; Nam Phương danh vật dị khảo; Như Tuyên thi tập; Thiện Đình Khiêm Trai văn tập…
PHẠM QUÝ THÍCH (25.12.1760 – 16.5.1825): Tự Dữ Đạo, hiệu Lập Trai, biệt hiệu Thảo Đường Cư sĩ, nhà thơ, nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê đầu đời Nguyễn. Quê huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, nay thuộc tỉnh Hải Dương, có làm quan một thời gian, tước Thích An hầu. Tác phẩm: Thảo Đường thi nguyên tập; LậpTrai văn tập; Thiên Nam long thủ liệt truyện; Chu dịch vấn đáp toát yếu…
CHU VĂN AN (25.8.1292 – 12.1370): Nhà văn, nhà giáo dục Việt Nam thời Trần, nổi tiếng cương trực, tiết tháo, thể hiện rõ nhất trong Thất trảm sớ. Các tác phẩm khác: Tiều ẩn thi tập; Tiều ẩn quốc ngữ thi tập; Tứ thư thuyết ước; Giang đình tác; Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính; Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân; Xuân đán…
ĐỖ PHÁP THUẬN (915 – 990): Thiền sư và nhà thơ, chưa rõ quê quán. Ông có kiến thức uyên bác và tài văn thơ, đã tích cực khuông phò triều Tiền Lê nên được phong Pháp sư. Bài Quốc tộ (Vận nước) của ông là bài thơ sớm nhất mở đầu cho văn học viết Việt Nam thời kì tự chủ. Chiếu dời đô (1010: 1000 năm ra đời): Văn bản chiếu chỉ do vua Lý Thái Tổ tự tay viết và ban hành để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra thành Đại La (Hà Nội ngày nay). Bài văn 214 chữ nổi tiếng bởi ý nghĩa và tác dụng đặc biệt của nó.
NGUYỄN NGUYÊN ỨC (1080 – 07.6.1151): Nhà văn, thiền sư, pháp danh Viên Thông, người hương Cổ Hiền nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, sau chuyển về thành Thăng Long. Ông là người tài giỏi, được vua nhà Lý phong đến chức Hộ quốc sư. Tương truyền, ông có hơn 1000 bài thơ phú, tập hợp trong Viên Thông thi tập, nhưng hầu hết bị thất truyền.
TÍN HỌC THIỀN SƯ (? – 1190): Họ Tô, không rõ tên, Tín Học là pháp hiệu, người làng Chu Minh, phủ Thiên Đức; trụ trì chùa Quang Đính trên núi Không Lộ (Sơn Tây), nay thuộc Hà Nội. Tác phẩm còn lại: Bài kệ Sơn lâm hổ báo, chép trong tập Thiền uyển tập anh ngữ lục.
TRẦN TUNG (1230 – 1291): Còn gọi là Tuệ Trung Thượng sĩ, nhà thiền học, nhà thơ, con cả Trần Liễu, anh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, có công lớn trong cả ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Ông được phong tước Hưng Ninh vương. Thơ ông viết bằng tiếng Hán, được tập hợp lại trong Thượng Sĩ ngữ lục.
LÊ VĂN HƯU (1230 – 09.4.1322): Sử gia, nhà văn, danh sĩ đời Trần Thái Tông, quê Đông Sơn, trấn Thanh Hoá, nay là huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Ông đỗ Bảng nhãn năm 1247, làm quan đến chức Thượng thư bộ Binh, tước Nhân Uyên hầu. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: Đại Việt sử ký.
PHẠM NGŨ LÃO (1255 – 1320): Nhà thơ, danh tướng thời Trần, văn võ toàn tài, quê huyện Đường Hào (sau gọi Mỹ Hào), nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Tác phẩm có Thuật hoài (Tỏ lòng, chép trong Toàn Việt thi lục); Khóc Hưng Đạo vương (chép trong Thần tích xã Phù Ủng).
ĐỖ KHẮC CHUNG (1247 – 1330): Còn gọi là Trần Khắc Chung, nhà thơ, danh thần đời Trần, quê ở Giáp Sơn, nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, được ban họ vua, làm tới chức Thiếu sư. Tác phẩm: 2 bài thơ Vịnh cúc I và II.
ĐOÀN NHỮ HÀI (1280 – 1335): Nhà văn, danh thần đời Trần, quê huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương, làm quan đến Hành khiển Khu mật viện, khi mất được truy phong Thượng đẳng Phúc thần. Tác phẩm còn lại: Nghĩ Anh Tông Hoàng đế tạ Thượng hoàng biểu.
TRẦN MINH TÔNG (1300 – 1357): Tên thật là Trần Mạnh, làm vua 15 năm (1314 – 1329). Tác phẩm: một số thơ (văn, sử) trong Trần triều thế phả hành trạng; Trần Minh-tông thi tập (chép trong Toàn Việt thi lục).
NGUYỄN TRUNG NGẠN (1289(1) – 1370): Tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên, làm quan đến chức Đại học sĩ Trụ quốc Khai huyện bá, tước Thân Quốc công… Tác phẩm: Giới Hiên thi tập; Hình luật thư; Hoàng triều đại điển; Ma nhai kỹ công bi.
TRẦN NGHỆ TÔNG (1320(2) – 1394): Tên thật là Trần Phủ, con thứ ba vua Trần Minh Tông, sau loạn Dương Nhật Lễ lên làm vua ba năm rồi nhường ngôi cho em. Tác phẩm: Bảo hoà điện dư bút; Trần Nghệ Tông thi tập (chép trong Toàn Việt thi tập).
TRẦN NGUYÊN ĐÁN (1325 – 1390): Nhà chính trị, nhà thơ, là chắt Thái sư Trần Quang Khải và là ông ngoại Nguyễn Trãi, làm quan đến chức Tư đồ, tước Chương Túc Quốc thượng hầu, quê phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Tác phẩm: Băng Hồ ngọc hác tập; Bách thế thông kỉ.
NGUYỄN BÁ TĨNH (1330 -?): Pháp hiệu Tuệ Tĩnh, nhà thơ, danh y đời Trần, quê huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Hoàng giáp nhưng không ra làm quan mà đi tu.Ông được cử đi sứ Trung Quốc, vua Minh phong ông hiệu Đại y thiền sư. Tác phẩm: Hồng nghĩa giác tư y thư; Nam dược thần hiệu; Thiền tông khoá hư lục.
THÁI THUẬN (1440 – ?): Tự là Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lã Đường, quê huyện Siêu Loại, nay là Thuận Thành, Bắc Giang. Ông được Lê Thánh Tông ban cho là Tao Đàn Phó Nguyên soái. Tác phẩm: Lã Đường thi cảo (gồm 4 quyển) và còn có 157 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.
NGUYỄN NHÂN PHÙNG (1450 – ?): Còn có tên là Nguyễn Trọng Ý, người huyện Võ Giàng tỉnh Bắc Ninh, nhà thơ, có chân trong hội Tao Đàn, được Lê Thánh Tông cho đổi quốc tính thành Lê Trọng Ý, làm quan tới chức Lễ bộ Tả thị lang. Tác phẩm: Vịnh Tiêu Tương bát cảnh phú (quốc âm); 19 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.
NGUYỄN HỮU NGHIÊM (1480 – ?): Nhà văn, nhà chính trị, quê huyện Đông Ngàn, này là Tiên Sơn, Bắc Ninh, đỗ Thám hoa năm 1508, làm quan triều Lê đến chức Thượng thư Chưởng Hàn lâm viện, bị Mạc Đăng Dung giết. Tác phẩm: Bằng trình học hành.
PHẠM THIỆU (1510 – ?): Nhà văn, nhà chính trị, quê huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Hoàng giáp năm 1553, từng đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Công bộ Thượng thư, tước Châu Khê hầu.Tác phẩm: Thi văn tấp yếu.
LÊ VĂN HƯU (1230 – 23.03.1322): Nhà sử học, nhà văn, danh sĩ đời Trần, quê Đông Sơn (nay thuộc Thiệu Hoá, Thanh Hoá); đỗ Bảng nhãn năm 17 tuổi, được bổ chức Học sĩ Viện Hàn lâm kiêm Giám tu Quốc sử, rồi thăng Thượng thư bộ Binh. Tác phẩm chính: Đại Việt sử kí gồm 30 quyển, là bộ sử lớn nhất đầu tiên ở nước ta, ghi lại những sự việc quan trọng trong 15 thế kỉ từ Triệu Vũ đế tới Lí Chiêu Hoàng. Bộ sách này không còn nhưng sử gia Ngô Sĩ Liên dựa vào đó để soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
HOÀNG DIỆU (10.02.1828 – 08.3.1882): Nhà thơ, nhà chí sĩ yêu nước, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trãi, quê Diên Phước, Quảng Nam; đậu Phó bảng năm 1853, được bổ làm Tri huyện Tuy Phước, Bình Định, sau được thăng Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, rồi Bố chính Bắc Ninh. Tác phẩm chính: Di biểu (tờ biểu để lại trước lúc chết) còn gọi là Trần tình biểu.
DƯƠNG KHUÊ (1839 – 06.3.1902): Nhà thơ, hiệu Vân Trì, quê Sơn Minh, phủ Ứng Hòa, nay thuộc Hà Nội), đỗ Tiến sĩ năm 1868, làm quan đến chức Thượng thư, sáng tác nhiều bài thơ chữ Nôm làm lời cho các bài hát ca trù nổi tiếng. Tác phẩm chính: Hồng hồng, Tuyết tuyết; Vân Trì thi thảo; Động Hương Tích; Gặp cô đào cũ; Thăm cô đào ốm; Tặng cô đào Ngọ; Tặng cô đào Cúc; Chơi hát ngẫu hứng; …
PHAN HUY ÍCH (9.01.1751 – 12.3.1822): Nhà văn, tên thật là Phan Công Huệ, tự là Khiêm Thụ Phủ, hiệu Dụ Am, quê làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, nay là huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; năm 1775 đỗ đồng Tiến sĩ, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ. Ông sáng tác nhiều bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm chính: Dụ Am ngâm lục tập; Dụ Am văn tập; Cúc Đường bách vịnh thi tập; bản dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU (01.7.1822 – 03.7.1888): Nhà thơ, nhà văn hóa, một nhân cách điển hình yêu nước thương dân. Ông quê Tân Bình, Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh; đỗ Tú tài, mở trường dạy học và bốc thuốc. Tác phẩm chính: Lục Vân Tiên (truyện thơ); Dương Từ – Hà Mậu (truyện thơ); Chạy Tây (1859); Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (văn tế, 1861); Ngư tiều y thuật vấn đáp (truyện thơ); Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864); Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874); …
LÊ TƯ THÀNH (25.8.1442 – 03.3.1497): Còn có tên Lê Hạo; Hoàng đế thứ năm của nhà Hậu Lê với vương hiệu Lê Thánh Tông, được coi là thời thịnh trị nhất trong thời kì chế độ phong kiến nước ta. Ông cũng là nhà thơ lớn, người sáng lập ra Hội Tao Đàn. Tác phẩm chính: Hồng Đức quốc âm thi tập; Thập giới cô hồn quốc ngữ văn; Liệt truyện tạp chí; Thánh Tông di cảo; Anh hoa hiếu trị ; …
PHAN CHU TRINH (09.9.1872 – 24.3.1927): Nhà văn, nhà chí sĩ cách mạng, tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, quê Tiên Phước, Quảng Nam. Ông đỗ Phó bảng, được bổ làm thừa biện bộ Lễ, sau từ quan để hoạt động cách mạng, chủ trương đấu tranh ôn hoà; bị bắt và đày ra Côn Đảo rồi đưa sang Pháp; năm 1925 về nước hoạt động và mất ở Sài Gòn. Tác phẩm chính: Đầu Pháp chính phủ thư (bản điều trần, 1906)); Tỉnh quốc hồn ca (1907 – 1922); Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (1912-1913) Santé thi tập (thơ, 1925); Tây Hồ thi tập (thập thơ); …
NGUYỄN TRÃI (1380 – 19.9.1442): Nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng kiệt xuất, hiệu Ức Trai, quê huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, nay thuộc tỉnh Hải Dương. Tác phẩm chính: Quân trung từ mệnh tập; Bình Ngô đại cáo; Ức trai thi tập; Dư địa chí; Chí Linh sơn phú; Quốc âm thi tập; … Ức trai thi tập (1480): một trong các Tập thơ chữ Hán đặc sắc của Nguyễn Trãi, được coi là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật thi ca Việt Nam, là mẫu mực của thể thơ thiên nhiên phương Đông. Tập thơ được sưu tầm, gồm 105 bài, sau khi Nguyễn Trãi được minh oan trong vụ án Lệ chi viên.
NGÔ THÌ ĐẠO (1732 – 9.1802): Nhà văn, dòng Ngô Gia văn phái; quê huyện Thanh Oai, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông từng giữ các chức Đại lý tự thừa, Tri phủ, , Hiến sát phó sứ kiêm ủy phủ sứ Kinh Bắc… Tác phẩm của ông được tập hợp thành Hoành từ Hiến sát Văn Túc công di thảo; …
LÍ NHẬT TÔN (1023 – 1072): Tức Lí Thánh Tông, vua thứ ba của nhà Lí, chủ trương giảm hình luật, coi trọng nghề nông, mở mang việc học, tăng cường phòng thủ quốc gia; ông cũng là nhà văn, tự tay viết một số bài minh khắc trên quả chuông chùa Sùng Khánh Báo Thiên (nay chưa tìm thấy).
LÍ TRƯỜNG (1052 – 1096): Nhà văn, nhà sư, pháp danh Mãn Giác, vốn họ Lí sau đổi họ Nguyễn nên có một số sách viết là Nguyễn Trường; chưa rõ quê ở đâu. Ông nổi tiếng thông hiểu cả Nho và Phật giáo, ông được chọn vào cung dạy hoàng tử, sau ông đi tu. Tác phẩm chính: Cáo tật thị chúng.
MẠC ĐĨNH CHI (1272 – 1386): Nhà văn, nhà thơ, danh sĩ, tự là Tiết Phu; quê huyện Bình Hà, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc Hải Dương). Ông đỗ trạng nguyên, làm quan đến chức Nhập nội hành khiển, Thượng thư tả bộc xạ kiêm Trung thư, hai lần đi sứ Trung Quốc, được tôn làm “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Tác phẩm chính: Ngọc tỉnh liên; Giao tử phú; Quá bành Trạch phỏng Đào Tiềm cựu cư; …
NGUYỄN SĨ CỐ (? – 1312): Nhà thơ, danh sĩ; từng giữ chức Học sĩ, An phủ sứ. Ông là người đề xướng dùng chữ Nôm trong thơ văn. Tác phẩm chính: Ông có nhiều thơ Nôm và thơ chữ Hán nhưng bị thất truyền, chỉ còn lại hai bài chép trong Toàn Việt thi lục là Tụng giá Tây chinh yết Tản Viên từ và Tụng giá Tây chinh yết Bạch Hạc giang Uy Hiển Vương từ .
ĐÀM VĂN LỄ (1452 – 1505): Nhà thơ, danh sĩ, là một trong Nhị thập bát tú của hội Tao đàn; tự Hoằng Kính, hiệu Chân Trai; quê Quế Dương, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Bắc Ninh). Ông đỗ đồng tiến sĩ, làm quan đến Thị thư Viện Hàn lâm, Chánh sứ sang nhà Minh, Phó đô ngự sử, Thượng thư bộ Lễ kiêm Đông các Đại học sĩ. Tác phẩm chính: Đền Phiếu mẫu; Tiễn xuân trên đất khách; Đề chùa Phong Công; Chùa xưa; Hoành Sơn dinh; Tức cảnh ngày hè; …
LÊ ĐỨC MAO (1462 – 1529): Nhà thơ, danh sĩ; quê huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, Hà Đông (nay là Hà Nội). Ông học rộng, đỗ tiến sĩ nhưng không ra làm quan, giỏi làm thơ, phú, bài hát. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn Bát giáp thưởng đào văn (Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào) bằng chữ Nôm, là bài ca trù cổ nhất còn lại hiện nay.
ĐÀO DUY TỪ (1572 – 1634): Nhà thơ, nhà quân sự, đệ nhất khai quốc công thần triều Nguyễn; quê Tĩnh Gia, Thanh Hoá. Ông học rộng nhưng không được đi thi vì xuất thân từ gia đình ca hát, vào Đàng Trong giúp chúa Nguyễn. Tác phẩm chính: Hổ trướng khu cơ; Ngoạ Long cương vãn; Tư Dung vãn.
NGUYỄN HỮU HÀO (1642 – 1713): Nhà thơ, danh sĩ, danh tướng; sinh ở Quảng Ninh, Quảng Bình, quê gốc ở huyện Tống Sơn, Thanh Hoá . Ông là người có dũng lược, giỏi việc dùng binh, làm tới Thống binh, chưởng cơ, sau khi mất được truy tặng Đôn Hậu Công thần Trấn phủ. Ông có tài văn chương thơ phú, nhưng đến nay chỉ có Song Tinh Bất Dạ là tác phẩm còn lại duy nhất của ông.
TRỊNH SÂM (1739 – 1782): Nhà thơ, chúa Trịnh đời thứ 9, tên thuỵ là Thịnh Vương; quê Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Ông là người thông minh, thích thơ văn, lên ngôi năm 1767, có nhiều quyết sách ảnh hưởng đến triều đình và chính sự cả nước. Tác phẩm chính: Nam tuần kí trình thư; Tây tuần kí trình thi; Tâm thanh tồn duy tập; Danh từ thực lục; Bình Hưng thực lục; …
NGÔ THẾ VINH (1802 – 1856): Nhà thơ, nhà giáo, danh sĩ; quê Nam Trực, Nam Định. Ông đỗ tiến sĩ, làm quan đến Lang trung bộ Lễ; do can việc trường thi bị cách chức, về quê mở trường dạy học. Tác phẩm chính: Dương Đình phú lục; Trúc Đường phú tuyển. Hoàng Việt sách tuyển; Luận thực đại lược; Trúc Đường Chu dịch tuỳ bút; Tống sử học; Trúc Đường thi văn khảo; Bái Dương thi tập; Ca trù thể cách; Bái Dương thư tập; Trúc Đường tuỳ bút.
NGUYỄN THUẬT (1842 – 1911): Nhà thơ, sử gia, tự Hà Đình; quê Lễ Dương, (nay thuộc Thăng Bình), Quảng Nam. Ông đỗ Phó bảng, làm quan đến Hiệp tá đại học sĩ, tước An Trường tử, Thượng thư bộ Binh, sung Cơ mật viện đại thần, Tổng tài Quốc sử quán; được cử làm Phó sứ sang Bắc Kinh. Tác phẩm chính: Mỗi hoài ngâm thi thảo; Hà Đình văn tập; Hà Đình Ứng chế thi sao; Thời chính tạp luận… Ngoài ra ông còn viết chung với một số tác giả về văn học, sử học: Sử quán thư mục; Đại Nam cương giới vựng biên; Đại Nam Quốc sử tàng thư mục; Thi thảo tạp biên; …
TRẦN THIỆN CHÁNH (1822 – 1874): Nhà thơ, chí sĩ, tự Tử Mẫn, hiệu Trừng Giang; quê Bình Long, Gia Định (nay thuộc Tp Hồ Chí Minh). Ông đỗ Cử nhân, làm quan đến Tán tương quân thứ Sơn Tây, Hồng lô tự thiếu khanh giữ chức Biện lý bộ Binh, Tuần phủ Ninh Bình. Tác phẩm chính: Trừng Giang thi văn tập; Nam hành thi thảo; Bắc chinh thi thảo, Trần Tử Mẫn công thi tập.
HỌC LẠC (1842 – 1915): Nhà thơ trào phúng, tên thật là Nguyễn Văn Lạc, hiệu là Sầm Giang; quê Mĩ Chánh, Mĩ Tho (nay là Tiền Giang). Ông nổi tiếng thơ văn, nhưng không đi thi, sống bằng nghề dạy học, bốc thuốc, bói dịch. Tác phẩm chính: Ông Làng hát bội; Mĩ Tho tức cảnh; Con tôm; Ngồi trăng; Thuộc Nhiêu tức cảnh; Tức cảnh ban chiều; Tạ hương đảng; Chó chết trôi;…
NGÔ GIÁP ĐẬU (1852 – ?): Nhà văn, sử gia, nhà giáo dục, hiệu Tam Thanh, biệt hiệu Sự Sự Trai; quê Tả Thanh Oai, nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ cử nhân, làm quan từ chức Giáo thụ đến chức Đốc học. Ông sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm chính: Hoàng Việt hưng long chí; Trung học Việt sử toát yếu; Hiện Kim Bắc Kì địa dư sử; Đại Nam quốc tuý; ông còn sửa chữa, bổ sung văn bản tập Lĩnh Nam chích quái; Ngô gia thế phả; Trung học Việt sử biên niên toát yếu; …
CHU MẠNH TRINH (1862 – 1905): Nhà thơ, danh sĩ, tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân; quê Đông Yên (nay là Khoái Châu), Hưng Yên. Ông đậu tiến sĩ, làm quan đến Án sát. Tác phẩm chính: Trúc Văn thi tập; Thanh Tâm Tài Nhân thi tập; Hương Sơn phong cảnh; Hương Sơn hành trình.
BÙI HỮU NGHĨA (1807 – 1872): Còn có tên là Bùi Quang Nghĩa, nhà thơ, hiệu Nghi Chi; quê phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc thành phố Cần Thơ). Ông đỗ Giải nguyên, làm quan đến Tri phủ, nhưng bị vu cáo may thoát án tử, từ quan về dạy học, viết thơ văn chống Pháp kịch liệt. Tác phẩm chính: Văn tế vợ, Văn tế con gái; Khóc vợ (thơ); Đi thuyền qua núi Sập (thơ); Quan công thất thủ (thơ); Kim Thạch Kỳ duyên (tuồng);…
NGUYỄN VĂN SIÊU (1799 – 1872): Nhà thơ, danh sĩ, tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình; quê Thanh Trì, Hà Nội. Ông đậu Phó bảng, giữ các chức quan Chủ sự bộ Lễ, Phó sứ sang nhà Thanh, Học sĩ Viện tập hiền, Án sát Hà Tĩnh và Hưng Yên, sau từ quan về quê dạy học, viết sách. Tác phẩm chính: Phương Đình dư địa chí; Chư kinh khảo ước; Chư sử khảo thích; Tứ thư bị giảng; Phương Đình tuỳ bút lục; Phương Đình thi loại; Phương Đình văn loại;…
VŨ PHẠM KHẢI (1807 – 1872): Nhà thơ, danh sĩ, tự là Đông Dương, hiệu Ngu Sơn, Dưỡng Trai, Phượng Trì; quê Yên Mô, Ninh Bình. Ông đỗ Cử nhân, từng giữ các chức Lang trung bộ Hình, Tham biện nội các, Toản tu Quốc sử quán, Hàn lâm Trực học sĩ, Bố chính Thái Nguyên, sau xin về quê giúp dân khai khẩn đất hoang. Tác phẩm chính: Ngu Sơn toàn tập; Lịch đại chính hình thông khảo; Đông Dương văn tập; Trần Lê ngoại truyện; Phượng Trì văn tập; Thực lục tiền biên;…
PHẠM PHÚ THỨ (1821 – 1882): Nhà thơ, danh sĩ, tên thật là Phạm Hào, tự là Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Trúc Ân, Giá Viên; quê Diên Phước, Quảng Nam. Ông đỗ đồng tiến sĩ, từng làm Tổng đốc, Thương chính đại thần, Khởi cư chú, Thượng thư bộ Hộ, Phó sứ trong phái bộ sang Pháp. Ông là người Việt Nam đầu tiên cho in sách về khoa học kĩ thuật, kiến nghị triều canh tân đất nước. Tác phẩm chính: Tây Phù thi thảo; Giá Viên biệt lục (còn gọi Tây hành nhật kí); Trúc Đường thi văn tập; Bác vật tân biên; Hàng hải kim châm;…
NGUYỄN TĨNH HOÀ (1859 – 1882): Nhà thơ nữ, con gái thứ 34 của vua Minh Mạng, tên chữ là Quý Khanh, Dưỡng Chi, bút danh Huệ Phố; quê Hà Trung, Thanh Hoá. Tác phẩm chính: Thái liên khúc; Mạt li từ ; Chu trung nhàn vọng; Thu dạ hoài Mai Am; Tiều phu tử; Huệ Phố thi tập.
NGUYỄN THIẾP (24.9.1723 – 6.2.1804): Nhà văn, nhà giáo và là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp. Ngoài ra, ông còn có rất nhiều tên tự hay tên hiệu, hoặc do ông tự đặt, hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn như: Khải Xuyên (có sách chép là Khải Chuyên), Hạnh Am, Điên ẩn, Cuồng ẩn, Lạp Phong cư sĩ, Hầu Lục Niên, Lam Hồng dị nhân, Lục Niên tiên sinh, La Giang phu tử, … Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung) gọi ông là La Sơn phu tử, là La Sơn tiên sinh. Tác phẩm: La Sơn tiên sinh thi tập, Hạnh Am di văn,
Hạnh Am ký (1782), Thích Hiên ký (1786), bài viết đề ở gia phả, và đề tựa Thạch Động thi tập của Phạm Nguyễn Du….
LÍ CÔNG UẨN (8.3.974 – 31.3.1028): Hoàng đế, nhà văn Việt Nam, người châu Cổ Pháp, lộc Bắc Giang (nay thuộc Bắc Ninh). Thuở nhỏ làm con nuôi thiền sư Lí Văn Khánh, lớn lên làm quan và khi nhà Tiền Lê sắp sụp đổ, Thái hậu Dương Vân Nga trao lại ngôi báu cho ông. Trong thời gian làm vua, Lí Công Uẩn có nhiều đóng góp quan trọng đối với lịch sử dân tộc, trong đó, một trong những thành tựu quan trọng nhất chính là việc rời đô ra Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Tác phẩm chính: Hiện chỉ còn bài Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) in trong Đại Việt sử kí toàn thư.
NGUYỄN MIÊN BỬU (30.5.1820 – 08.3.1854): Tự là Duy Thiện, Sư Cổ, hiệu là Khiêm Trai, Mai Hiên, nhà thơ, con thứ 12 của vua Minh Mạng, tước Tương An Quận vương. Cùng với 2 anh Miên Thẩm, Miên Trinh lập Tùng Vân thi xã. Các tác phẩm chính: Khiêm Trai thi tập (14 quyển); Khiêm Trai văn tập (2 quyển), ông còn viết nhiều thơ Nôm nhưng hầu hết đã thất lạc.
SƯƠNG NGUYỆT ANH (8.3.1864 – 20.1.1921): Tên thật là Nguyễn Thị Khuê, tự là Nguyệt Anh, nhà thơ, quê ở Ba Tri, Bến Tre, là con gái tác gia Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài bút danh Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh… Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng không gom thành tập. Nay chỉ còn tản mác một số bài thơ, như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự , Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến…Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề…
LÊ QUÍ ĐÔN (黎貴惇, 2.8.1726 – 2.4.1784): Nhà văn, nhà khảo cứu thời kì trung đại Việt Nam, tự Duẫn Hậu 允厚, tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, hiệu Quế Đường 桂堂; là quan thời Lê trung hưng, quê ở làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam; nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721), và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Ông là người đã biên tập, trước thuật rất nhiều sách, đến nay đã thất lạc khá nhiều. Tác phẩm chính: Dịch kinh phu thuyết (Lời bàn nông nổi về Kinh Dịch), Thư kinh diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh Thư), Quần thư khảo biện (Xét bàn các sách), Thánh mô hiền phạm lục (Chép về mẫu mực của các bậc thánh hiền), Vân Đài loại ngữ (Lời nói, chia ra từng loại, ở nơi đọc sách), Toàn Việt thi lục (Chép đủ thơ nước Việt), Quế Đường thi tập (Tập thơ của Quế Đường), …
ĐẶNG HUY TRỨ (鄧輝著, 16.5.1825 – 7.8.1874): Nhà văn, nhà cải cách Việt Nam thời cận đại, ông tổ nghề nhiếp ảnh ở Việt Nam và là người đầu tiên đưa kỹ nghệ đóng tàu phương Tây du nhập vào Việt Nam. Ông tự là Hoàng Trung, hiệu là Võng Tân, Tỉnh Trai, tục gọi là Bố Trứ – Bố Đặng (do ông từng làm Bố chính), pháp danh Đức Hải (thủa thiếu thời ông từng được đem quy y tại chùa Từ Hiếu), quê ở làng Bát Vọng, sau sang ngụ ở Hương Trà, Thừa Thiên-Huế. Tác phẩm chính: Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (Sao chép châm ngôn của Đặng Dịch Trai), Hoàng Trung thi văn (Thơ văn Hoàng Trung), Nữ giới diễn ca (Bài ca răn nữ giới), …
NGUYỄN THÔNG (阮通, 22.6.1827 – 27.8.1884): Tự Hi Phần, hiệu Kì Xuyên, biệt hiệu Độn Am, nhà thơ, danh sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19, quê ở phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay thuộc xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An). Thi đỗ cử nhân, từng làm quan ở An Giang, khi thực dân Pháp xâm lược, ông xin cầm quân về Nam, sau này Nam Kì lục tỉnh bị mất, ông ra làm quan ở Quảng Ngãi, vận động nhân dân làm thủy lợi, trồng cấy, làm được nhiều việc có ích cho dân. Tác phẩm chính: Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Vâng mệnh san định, xem xét cương mục lịch sử nước Việt), Kì Xuyên thi sao (Tập chép thơ của Kì Xuyên), Kì Xuyên vǎn sao (Tập chép văn của Kì Xuyên)…
NGÔ THÌ HƯƠNG (吳時香, 17.10.1774 – 1.1.1821): Còn có tên là Vị (位), tự Thành Phủ (成甫), hiệu Ước Trai (箹齋), nhà văn Việt Nam cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ 19, quê ở huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông là con út Ngô Thì Sĩ, là em Ngô Thì Nhậm và Ngô Thì Chí. Cả ba đều là danh sĩ thời bấy giờ. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh dòng họ Ngô đã sa sút, đến thời Gia Long, được làm quan và đi sứ Trung Quốc, bị cảm và mất trên đường đi. Tác phẩm chính: Mai dịch thú dư (Cỗ xe sứ trạm, kí sự), Thù phụng toàn tập (Toàn tập xướng họa, thơ), Thành Phủ công di thảo (Bản thảo để lại của ông Thành Phủ, do hậu nhân sưu tập).
NGÔ THÌ NHẬM, còn gọi là Ngô Thời Nhiệm (25/10/1746 – 1803), tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, về Phật học lại có đạo hiệu là Hải Lượng, là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê và Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Tác phẩm nổi bật: Doãn thi văn tập (văn, thơ), Yên đài thu vịnh (thơ),…
NGÔ THÌ CHÍ (吳時俧, 1753 – 1788) là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 18 thời Lê trung hưng.Ngô Thì Chí tên chữ là Học Tốn, hiệu là Uyên Mật, là người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay là thuộc huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội). Ông là con trai thứ hai của Ngô Thì Sĩ, và là em ruột Ngô Thì Nhậm. Thi Hương, ông đỗ Á nguyên, làm quan đến chức Thiêm thư bình chương tỉnh quốc.Tác phẩm của Ngô Thì Chí có:Học Phi thi tập, Học Phi văn tập, Quốc sử tiệp lục , Hào thiên khoa sớ và 7 hồi đầu của quyển Hoàng Lê nhất thống chí.
LÍ THÁI TÔNG (29.7.1000 – 1054): Tên thực là Lí Phật Mã, sau đổi là Lí Đức Chính, con Thái Tổ Lí Công Uẩn, nối ngôi 27 năm, miếu hiệu là Thái Tông. Ông là vị hoàng đế sáng suốt, tinh thông Phật học. Tác phẩm còn lại: Hình thư (sử, 3 quyển), một bài kệ chép trong Thiền uyển tập anh ngữ lục.
LÍ ĐẠO TÁI (李道載, 1254 – 1334): Tức thiền sư Huyền Quang 玄光, người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội. Ông đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ (Trạng nguyên) khoa thi năm 1272? và được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, tiếp sứ Bắc triều, nổi tiếng văn thơ. Sau này từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Tác phẩm chính: Ngọc Tiên tập (tập thơ Ngọc Tiên), Chư phẩm kinh (Kinh các phẩm), Công văn tập (Tập công văn dùng trong nhà chùa), …
TRẦN NGHỆ TÔNG (1320 – 1394): Tên thật là Trần Phủ, con thứ ba vua Trần Minh Tông, sau loạn Dương Nhật Lễ lên làm vua ba năm rồi nhường ngôi cho em. Tác phẩm: Bảo hoà điện dư bút; Trần Nghệ Tông thi tập (chép trong Toàn Việt thi tập).
TRƯƠNG HÁN SIÊU (張漢超, ? – 1354): Danh sĩ thời Trần, tên tự là Thăng Phủ, hiệu Đôn Tẩu, quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình), là môn khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn bài Bạch Đằng giang phú, được đánh giá là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học yêu nước Việt Nam, một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ.
LÍ TỬ TẤN (1378 – 1454): Nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ, hiệu là Chuyết Am quê ở làng Triều Đông (sau đổi là Triều Liệt), huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh huyện Thường Tín, Hà Nội). Năm 1400, ông thi đỗ Thái học sinh lúc 32 tuổi, cùng khoa với Nguyễn Trãi, thời Hồ Quý Ly, nhưng không làm quan cho nhà Hồ. Vào khoảng cuối cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn, ông đến yết kiến nơi hành tại, được Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi), khen là người học nhiều, sai giữ chức Văn cáo tức là làm nhiệm vụ thảo công văn, giấy tờ, thư tín… Sau đó, ông tiếp tục làm quan dưới triều nhà Lê, trải qua ba đời vua: Lê Thái Tổ (1428- 1433), Lê Thái Tông (1434-1442), Lê Nhân Tông (1443-1459). Tác phẩm chính: Chuyết Am thi tập (Tập thơ của Chuyết Am) nhưng hiện chỉ còn 5 bài phú chép trong Quần hiền phú tập do Hoàng Tụy Phu (1414-?) sưu tập, và 73 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726-1784).
ĐẶNG DUNG (鄧容, ? – 1413/1414): Nhà thơ và là danh tướng nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam, quê ở Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con trai cả của Quốc công Đặng Tất (? – 1409). Tác phẩm duy nhất còn lại là bài thơ Cảm hoài 感懷 được chép trong Việt âm thi tập 越音詩集.
NGUYỄN KIỀU (1694 – 1771): hiệu là Hạo Hiên, nhà thơ Việt Nam, quê ở làng Phú Xá, huyện Từ Liêm (nay là huyện Từ Liêm, Hà Nội). Đỗ Tiến sĩ năm 1715 và làm quan triều Lê, nổi tiếng hay chữ. Năm 1742, lấy nữ sĩ Đoàn Thị Điểm làm vợ kế; cùng năm, đi sứ Thanh. Năm 1748, được bổ chức đốc đồng Nghệ An, trên đường đưa gia đình đi theo, Đoàn Thị Điểm cảm nặng rồi mất. Tác phẩm chính: Hạo Hiên thi tập (Tập thơ của Hạo Hiên).
NGUYỄN HÀNH (阮衡, 1771 – 1824): Tên thật là Nguyễn Đạm, tự là Tử Kính, hiệu Nam Thúc, biệt hiệu Ngọ Nam và Nhật Nam, nhà thơ Việt Nam được người đương thời liệt vào An Nam ngũ tuyệt. Là con của Nguyễn Điều, là cháu nội Nguyễn Nghiễm, và gọi Nguyễn Du là chú ruột. Là người giỏi thơ văn, theo tư tưởng truyền thống, bất hợp tác với nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn. Về sáng tác ông có để lại 2 tập thơ chữ Hán: Quan Đông hải (觀東海, Xem biển Đông), Minh quyên thi tập (鳴鵑詩集, Tập thơ chim quyên kêu).
TRƯƠNG QUỐC DỤNG (1797 – 1864): Nhà văn, danh sĩ thời Nguyễn, là người có công chấn hưng lịch pháp Việt Nam, tự là Dĩ Hành, quê tại làng Phong Phú; nay là xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tác phẩm chính: Trương Nhu Trung thi tập (Tập thơ Trương Nhu Trung), Thoái thực ký văn (Ghi chép những điều nghe được lúc lui về dùng cơm), Chiếu biểu luận thức (Bàn về cách thức của chiếu, biểu), Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Kính vâng san định sử Việt đại cương và chi tiết làm tấm gương soi suốt cổ kim), …
TRẦN THIỆN CHÁNH (1822 – 1874): Nhà thơ, chí sĩ, tự Tử Mẫn, hiệu Trừng Giang; quê Bình Long, Gia Định (nay thuộc Tp Hồ Chí Minh). Ông đỗ Cử nhân, làm quan đến Tán tương quân thứ Sơn Tây, Hồng lô tự thiếu khanh giữ chức Biện lý bộ Binh, Tuần phủ Ninh Bình. Tác phẩm chính: Trừng Giang thi văn tập; Nam hành thi thảo; Bắc chinh thi thảo, Trần Tử Mẫn công thi tập.
NGUYỄN TRINH THẬN (12.9.1826 – 1904): Hiệu là Mai Am, nhà thơ, nữ danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, là công chúa, con gái thứ 25 của vua Minh Mạng, ngay từ nhỏ đã tỏ ra là người học nhiều, giỏi thơ văn. Tác phẩm chính: Diệu Liên thi tập (Tập thơ của Diệu Liên)
NGUYỄN MIÊN CƯ (1830 – 1854): hiệu Trọng Chữ, con thứ 47 vua Minh Mạng, được phong tước Quảng Trạch Quận công, nổi tiếng thơ hay thời bấy giờ. Tác phẩm: Cống thảo viên thi.
BÀ HUYỆN THANH QUAN (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh; là người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội[2]. Cha bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.Dưới thời vua Minh Mạng, bà được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật, nhưng rất uyên bác như: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà
HỒ XUÂN HƯƠNG (1772 – 1822) nữ nhà thơ nổi tiếng thời trung đại Việt Nam, thi sĩ Xuân Diệu đã mạo muội tôn Hồ Xuân Hương làm Bà chúa thơ Nôm. Các tác phẩm của bà được đánh giá là “thanh thanh tục tục”, hàm ý sâu xa. Tác phẩm: Lưu Hương ký, Xuân Hương thi tập.
NGUYỄN KHUYẾN (1835 – 1909), tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ , xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ,… cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
CAO BÁ QUÁT (1809 – 1855), hiệu Mẫn Hiên, Chu Thần. Ông là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm: Cao Bá Quát thi tập, Cao Chu Thần di thảo, Cao Chu Thần thi tập, Mẫn Hiên thi tập.
ĐOÀN THỊ ĐIỂM (段氏點, 1705-1749), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập Truyền kỳ tân phả (chữ Hán), và tác giả của truyện thơ Chinh phụ ngâm (bản chữ Nôm- 412 câu thơ)- được bà dịch từ nguyên bản Chinh phụ ngâm khúc (viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn). Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Sương Nguyệt Anh.
PHẠM THÁI 範泰, 1777-1813), còn gọi Phạm Đan Phượng, Phạm Phượng Sinh, hiệu Chiêu Lì (hoặc Chiêu Lỳ); là một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Tác phẩm: Chiến tụng Tây hồ phú, Sơ kính tân trang, Văn tế Trương Quỳnh, Như Thơ họa 12 bài Trương Quỳnh Như…
PHẠM ĐÌNH HỔ 范廷琥, 1768 – 1839), tự Tùng Niên (松年), Bỉnh Trực (秉直), bút hiệu Đông Dã Tiều (東野樵), biệt hiệu Chiêu Hổ tiên sinh (昭琥先生), là một danh sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Nhờ đọc nhiều, đi nhiều, ông đã để lại nhiều công trình khảo cứu, biên soạn có giá trị thuộc đủ mọi lĩnh vực như luận lý, lịch sử, địa dư, trước thuật…
NGUYỄN QUANG BÍCH (07.5.1832 – 05.01.1890): Còn có tên là Ngô Quang Bích, hiệu Ngư Phong, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc kháng chiến chống Pháp tại vùng Tây Bắc, quê Kiến Xương, Nam Định, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Đình nguyên, làm quan đến Tuần phủ Hưng Hoá, tổ chức nghĩa quân chống Pháp trong 10 năm gây nhiều tổn thất cho địch. Tác phẩm chính: Ngư phong thi tập (Tập thơ Ngư Phong, 1884 – 1889); ông là người được vua giao duyệt bộ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục; …
Xuân Kiên/Nam Minh (TH)
Chia sẻ bài viết
Những Điểm Nổi Bật Trong Luật Casino Việt Nam
Hiện nay, dù chưa có luật Casino cụ thể nhưng chính phủ đã có rất nhiều Nghị định, thông tư quy định về vấn đề hoạt động trong lĩnh vực này. Trong đó cụ thể là các nghị định như:
Nghị định 83/2013/NĐ-CP
Nghị định 175/2016/NĐ-CP
Thông tư số 11/2014/TT-BTC
Điều kiện kinh doanh casino tại Việt Nam
Vấn đề đầu tiên được quy định trong luật Casino chính là điều kiện kinh doanh Casino. Trong đó, những tổ chức, doanh nghiệp muốn kinh doanh Casino phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch. Và những doanh nghiệp này phải được xếp hạng 5 sao trở lên, cao cấp.
Ngoài ra các doanh nghiệp muốn kinh doanh casino cũng cần phải đáp ứng đủ các điều kiện về an ninh, trật tự. Cùng với đó họ phải là người có đủ năng lực tài chính. Đặc biệt, để được kinh doanh, những người này phải đưa ra được phương án kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng có hiệu quả, chứng minh tiềm lực phát triển.
Những ai được tham gia casino?
Mặc dù tại Việt Nam đã có 6 casino nhưng chỉ có duy nhất 1 casino cho phép người Việt tham gia. Còn lại là các casino dành cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư nước ngoài tham gia. Cụ thể phải là người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhập cảnh hợp pháp vào Việt Nam. Những người này phải đảm bảo có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Bên cạnh đó, bạn muốn tham gia vào các casino cũng cần phải đảm bảo mình có đủ tiềm lực về tài chính. Trong đó, thu nhập của bạn phải đảm bảo thường xuyên từ 10 triệu đồng/tháng trở lên cũng như thuộc diện chịu thuế từ bậc 3. Đặc biệt, bạn cần phải đảm bảo không thuộc đối tượng bị người thân không cho phép chơi tại điểm kinh doanh casino.
Ngoài ra, luật casino Việt Nam còn quy định một số đối tượng bị cấm không được tham gia vào casino. Những đối tượng này chủ yếu là người đang phải chấp hành các hình phạt theo quy định của bộ luật Hình sự. Họ sẽ bị hạn chế quyền tham gia vào các casino so với những công dân thông thường.
Danh sách các Casino đang hoạt động tại Việt Nam
Hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành thì casino là một trong những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Và trên cả nước đã xuất hiện 6 casino ở những khu vực khá phát triển như Hải Phòng, Lào Cai, Đà Nẵng…
Casino Đồ Sơn (Hải Phòng)
Casino Hạ Long
Casino Hồ Tràm Strip (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Casino Aristo Lào Cai
Corona Resort & Casino Phú Quốc
Vì các casino chưa thực sự phổ biến nên đa phần hiện nay mọi người thường lựa chọn chơi casino Việt Nam online. Về cơ bản thì casino online cũng vô cùng thú vị, không kém phần hấp dẫn so với những casino thực tế. Để tham gia bạn chỉ cần đăng ký thành viên và nạp tiền vào các nhà cái trực tuyến uy tin như 188bet.
Kể Tên Các Văn Bản Nghị Luận Trung Đại Việt Nam Đã Học Trong Chương Trình Ngữ Văn 8? Nêu Tên Tác Giả Và Hoàn Cảnh Ra Đời Của Các Văn Bản Đó?
– Nguyễn Trãi ( 1380-1442), hiệu là Ức Trai
– Quê quán: Làng Nhị Khê, huyện Thường Phúc nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (cũ)
b.Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
+ Ông là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê sơ Việt Nam
+ Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và trở thành cánh tay đắc lực của Lê Lợi, có công lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc thế kỉ XV
+ Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, ông để lại cho đời sau một di sản to lớn trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự nghiệp văn học.
+ Các tác phẩm tiêu biểu: Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập…
-Thơ ông mang nhiều tư tưởng yêu nước, thể hiện những triết lí sâu sắc, tinh tế lãng mạn, sáng tạo và thanh khiết
– Đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) soạn thảo Bình Ngô đại cáo để thông cáo với toàn dân về sự kiện có ý nghĩa trọng đại này.
-Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
– Quê quán: làng Mật Thôn, xã Ao Nguyệt, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh
– Ông từng làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học
– Ông từng được vua Quang Trung viết thư mời giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị
– Những tác phẩm tiêu biểu: La Sơn tiên sinh thi tập, Hạnh Am di văn…
c.Hoàn cảnh sáng tác:
-Nguyễn Thiếp làm quan một thời gian dưới triều Lê rồi về dạy học. Khi Quang Trung xây dựng đất nước đã viết thư mời ông giúp dân giúp nước về mặt văn hóa giáo dục, vì vậy tháng 8 năm 1971, Nguyễn Thiếp đã đang lên vua bản tấu này
Tận Dụng Hợp Tác Quốc Tế Trong Giáo Dục Đại Học Việt Nam (2 Kỳ)
Tận dụng hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học Việt Nam (kỳ 1)tiasang – 20/04/2020 07:00 – Pierre Darriulat
Mới đây, hai trường Đại học Việt-Đức(VGU) và Việt-Pháp (Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội – USTH) lần lượt kỷ niệm 10 năm thành lập. Đây là một dịp để nhìn lại những gì đã đạt được, và quan trọng hơn, để tự đánh giá xem chúng ta đã tận dụng được tối đa những quan hệ hợp tác ấy hay chưa.
Sinh viên và giảng viên đại học Việt – Đức. Ảnh: ĐH Việt – Đức.
Nghị quyết 14 về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam
Hai trường VGU và USTH được thành lập trong giai đoạn Việt Nam thực hiện Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới toàn diện và cơ bản giáo dục đại học Việt Nam 2006-2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 14). Tôi đọc lại văn bản quan trọng đó trước khi viết bài này và, như thường lệ, có ấn tượng sâu sắc với sự sáng suốt và tầm nhìn của những người soạn ra nó. Nghị quyết 14 đã kêu gọi một sự thay đổi phong cách thực sự, tách khỏi cách tiếp cận từng bước truyền thống và dè dặt.
Tuy nhiên, thực tế triển khai Nghị quyết 14 mang lại những kết quả không như kỳ vọng, thể hiện trong đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) qua các năm 2010 và 2018. Tôi xin không đi vào chi tiết, chỉ tóm tắt lại một số nhận định:
i. Mặc dù học sinh 15 tuổi ở Việt Nam có kiến thức và kỹ năng tương đương hoặc cao hơn so với các nước phát triển, nhưng các em không có nhiều lựa chọn giàu chất lượng và phù hợp đối với giáo dục sau phổ thông. ii. Dù mở rộng nhanh chóng, khả năng tiếp cận giáo dục đại học ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất so với các quốc gia trong khu vực. Số sinh viên đại học được tuyển tăng mạnh từ 0,13 triệu năm 1987 lên 1,77 triệu năm 2017. Thế nhưng, tỷ lệ tuyển sinh 28% của giáo dục sau phổ thông của năm 2016 vẫn là một trong những tỷ lệ thấp nhất trong khu vực Đông Á. Khối công lập chiếm phần lớn (85%) giáo dục đại học. Năm 2017, có 235 trường đại học, trong đó có 170 trường công lập và 65 trường ngoài công lập.
Mười hai năm trước, tôi có vinh hạnh được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một người rất quan tâm đến giáo dục đại học. Ông nhấn mạnh thông điệp: “Các trường đại học Việt Nam cần có một cuộc cách mạng, phải tiếp tục đấu tranh!”.
iii. Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam vận hành không tốt nếu xét về chất lượng và tính phù hợp của sinh viên tốt nghiệp và sản phẩm nghiên cứu. Hệ thống không cung cấp các kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng máy tính và kỹ năng chung (giải quyết vấn đề, giao tiếp, làm việc nhóm) cần thiết cho sự tăng trưởng của các ngành xuất khẩu có hàm lượng tri thức cao, các ngành dịch vụ, và tự động hóa. Các trường đại học có quá ít kết quả nghiên cứu, và những kết quả ít ỏi có được phần lớn không đủ chất lượng và không phù hợp với các yêu cầu của nền kinh tế. Chất lượng nghiên cứu thấp gắn liền với sự quản lý manh mún của các chương trình nghiên cứu và phát triển, các quỹ nghiên cứu hầu hết được cấp cho các viện nghiên cứu riêng lẻ thay vì cho các trường đại học, sự đãi ngộ chưa thỏa đáng cho các nhà khoa học; các trường đại học công bị cản trở bởi thiếu sự tự chủ và thiếu tài chính.iv. Đầu tư công của Việt Nam vào giáo dục đại học chưa thỏa đáng và chưa hiệu quả. Năm 2015, Việt Nam chỉ dành 5% chi tiêu giáo dục của chính phủ cho giáo dục đại học, tương đương với chỉ 0,25% GDP và 0,8% tổng chi tiêu của chính phủ. Đây là một trong những mức thấp nhất so với các nước cùng trình độ phát triển và là rất thấp đối với một nước có mục tiêu trở thành một nền kinh tế tri thức trong tương lai gần. Các trường đại học công lập của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào học phí, mà học phí lại là một thách thức cho nhiều sinh viên vì học bổng và hệ thống vay cho sinh viên chưa đủ phát triển. Việt Nam vẫn cấp ngân sách mang tính định kỳ thay vì những cơ chế khách quan và minh bạch hơn ngày càng phổ biến trên thế giới như dựa theo công thức hoặc dựa theo thành tích.
v. Theo xu hướng toàn cầu về đại học tự chủ, Việt Nam đã bắt đầu cải cách tự chủ đại học, dù mới ở quy mô hạn chế. Từ năm 2005, và đặc biệt là sau khi Luật Giáo dục đại học được thông qua vào năm 2012, Việt Nam bắt đầu hướng đến trao cho các trường đại học công nhiều quyền tự chủ hơn. Tuy nhiên, các trường đại học không có quyền tự chủ giống nhau, và đến nay chỉ có 23 trong 235 trường đại học công (chiếm chưa đến 7% số sinh viên) được trao quyền tự chủ. vi. Chính phủ đã bắt đầu thúc đẩy những điều kiện mạnh hơn về chất lượng giảng dạy, tính liêm chính trong quản lý và trách nhiệm tài chính, đặc biệt với Luật giáo dục đại học 2012. Đến nay, 75% các trường đại học đã thành lập bộ phận quản lý chất lượng riêng. Tuy nhiên, mục tiêu về thực hiện đánh giá độc lập vẫn chưa đạt được bởi các vấn đề năng lực và thiếu tuân thủ. vii. Chính phủ đang giải quyết những thách thức trên bằng nhiều cách: đang sửa đổi Luật Giáo dục đại học; chuẩn bị một chiến lược dài hạn cho giáo dục đại học giai đoạn 2021-2030; và thực hiện những cải cách cấp thiết về tăng cường chất lượng, nghiên cứu xuất sắc, cải thiện quản lý ở cấp cơ sở và trên toàn hệ thống, và sự bền vững về tài chính. Một trong những ưu tiên là phát triển một số trường đại học thành những trung tâm xuất sắc.
Có thể thấy, khoảng cách giữa nội dung Nghị quyết 14 và việc thực hiện trên thực tế là đáng thất vọng. Phải chăng vì Nghị quyết 14 đặt ra kỳ vọng quá nhiều và vượt khả năng thực hiện trong thực tế? Hay vì những người có trách nhiệm thực hiện chúng không đủ năng lực và không đủ táo bạo? Tôi cho là cả hai, mỗi thứ một chút. Giáo dục đại học đến nay vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong nguồn lực của chính phủ, những giải pháp cho hầu hết các vấn đề cấp bách chỉ mang tính ngắn hạn, dường như vẫn đang thiếu một tầm nhìn dài hạn để chèo lái đúng hướng.
Để Nghị quyết 14 được thực hiện hiệu quả, cần có một người phụ trách và chịu trách nhiệm cuối cùng; nhưng đáng tiếc là trách nhiệm thực hiện Nghị quyết 14 lại được phân chia cho nhiều bộ và cơ quan, trong đó có Đại học Quốc gia (VNU) và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST)…, mà kết quả là sự rời rạc và kém hiệu quả.
Trong phòng thí nghiệm của Đại học Việt – Pháp. Ảnh: ĐH Việt – Pháp.
Bên cạnh đó, các học giả cần được tham gia ý kiến rộng rãi trên các diễn đàn, chẳng hạn trong các hội chuyên ngành như Hội Vật lý Việt Nam, và hình thành các nhóm nghiên cứu để vạch ra các giải pháp thiết thực nhất để triển khai Nghị quyết 14. Nhưng đáng tiếc, những sáng kiến như vậy không được thúc đẩy ở Việt Nam. Tất nhiên là có những phân tích bởi các tác giả Việt Nam hoặc bởi những hội thảo có nhiều người Việt Nam tham dự, hoặc thậm chí bởi các cán bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhưng không một ai trong số họ có đủ vai trò để vạch ra một lộ trình rõ ràng.VGU và USTH: Những chậm trễ trong triển khai đại học kiểu mới
Quyết định 69 của Thủ tướng Chính phủ hồi tháng 1 năm 2019đã vạch ra một kế hoạch với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong giai đoạn 2019-2025. Những diễn giải của nó vẫn nằm trong định hướng chung của Nghị quyết 14 trước đây. Mục tiêu là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của hệ thống giáo dục đại học đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực; góp phần nâng cao chất lượng và năng suất lao động, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, tăng cường năng lực cạnh tranh của quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đây là những mục tiêu đầy tham vọng, nhưng điều cần lưu ý là trong đó không đề cập đến cả đại học xuất sắc lẫn đại học kiểu mới.
Trước khi nhận dạng những trường đại học xuất sắc, cần phải nhận dạng những cá nhân và những nhóm nghiên cứu xuất sắc; chỉ bằng cách khiến cho họ làm việc cùng nhau, chúng ta mới có thể hy vọng xây dựng những trường đại học xuất sắc.
Chúng ta không được phép quản lý giáo dục đại học như dự án đường sắt đô thị Hà Nội; ở đây chúng ta không chỉ xử lý hàng trăm triệu USD, mà quan trọng hơn, còn tác động tới tương lai của trẻ em cả nước, tài sản lớn nhất của quốc gia.
VGU gồm hai khoa, khoa Kỹ thuật và khoa Kinh tế và Quản lý. USTH được tổ chức thành chín khoa: khoa Đào tạo đại cương, khoa Khoa học sự sống, khoa Công nghệ thông tin và truyền thông, khoa Năng lượng, khoa Hàng không, khoa Khoa học cơ bản ứng dụng, khoa Vật liệu tiên tiến và công nghệ nano, khoa Nước – môi trường – hải dương học, và khoa Vũ trụ và ứng dụng.
Năm học 2016-2017, VGU có 1200 sinh viên và đặt mục tiêu 5000 sinh viên vào năm 2020. Tuy nhiên, trường vẫn chỉ có khoảng 1300 sinh viên. Năm học 2019-2020, USTH có 750 sinh viên hệ cử nhân và chỉ 35 học viên thạc sỹ năm thứ nhất so với 78 học viên năm học 2016-2017. Cả hai trường đều gặp khó khăn lớn trong tuyển sinh.
Sự phát triển của cả VGU lẫn USTH đều chậm hơn dự kiến, đặc biệt là việc xây dựng các khuôn viên mới. Hệ quả là tháng 8/2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng quyết định hoãn mở thêm đại học hợp tác với quốc tế, ít nhất đến 2020. Trong trường hợp của VGU, dự án được khởi công vào tháng 10/2016, với tổng đầu tư hơn 200 triệu USD, trong đó 180 triệu là các khoản vay lãi suất thấp từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) và 20 triệu là từ Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, tiến độ bị chậm do các vấn đề trong quản lý dự án. Dưới sức ép của WB, ngày 12/12/2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo tuyên bố quyết tâm xây dựng trên đà đang có của dự án hoàn thành cuối tháng 11/2020 và đạt đến mục tiêu biến VGU thành một trường đại học nghiên cứu tự chủ. Bộ Giáo dục và Đào tạo cam kết cấp đủ vốn đối ứng và vốn IDA để tạo điều kiện cho các hoạt động của dự án được hoàn thành đúng hạn, và đồng ý với WB về mười tám hành động có thời hạn.
Trong trường hợp của USTH, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) soạn một báo cáo sơ bộ vào năm 2010, sau đó là một báo cáo chi tiết vào năm 2012, trong đó mô tả dự án cùng với các mục tiêu và điều kiện thực hiện. Tháng 11/2018, Việt Nam và Pháp ký một thỏa thuận liên chính phủ về việc phát triển USTH trong giai đoạn 5 năm 2019-2023, theo đó Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp khẳng định lại quyết tâm và cam kết phát triển USTH thành một đại học xuất sắc và một trong những đại học hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Một hội thảo chiến lược về việc phát triển USTH diễn ra ở Hà Nội vào tháng 12/2019 với mục đích rút ra các bài học từ mười năm vừa qua và đổi mới với những mô hình và quan hệ đối tác mới. Tháng 11/2019, ADB đưa ra dự án cập nhật, trong đó việc xây dựng khuôn viên mới được dự kiến hoàn thành năm 2023.
***
Nếu VGU và USTH thất bại, đó trước hết sẽ là thất bại của Việt Nam chứ không phải thất bại của các nước đối tác. Giúp hai trường thành công là vì lợi ích của Việt Nam hơn là lợi ích của các nước đối tác. Quả bóng đang ở trong chân chúng ta. Các nước đối tác đã dành nhiều thời gian và công sức cho sự phát triển của VGU và USTH, chúng ta thì chưa. Có thể họ đi chệch đường vì thiếu một nhận thức chính xác về tình hình Việt Nam, chúng ta có trách nhiệm giúp họ quay lại con đường đúng. Chúng ta phải thực hiện trách nhiệm của mình. Thiếu chỉ đạo từ trên xuống không phải lý do để cứ mãi thụ động. Những khởi xướng từ dưới lên sẽ giúp thúc đẩy tiến bộ và cần được khuyến khích. Chúng ta không được phép quản lý giáo dục đại học như dự án đường sắt đô thị Hà Nội; ở đây chúng ta không chỉ xử lý hàng trăm triệu USD, mà quan trọng hơn, còn tác động tới tương lai của trẻ em cả nước, tài sản lớn nhất của quốc gia. □
(Còn tiếp)
***
Tận dụng hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học Việt Nam (kỳ 2)
–
Sinh viên Việt Nam và Pháp đi thực tập khảo sát mô hình xử lý nước thải tại Gia Lâm. Ảnh: Tăng Thị Chính.
Hơn ba thập kỷ từ khi Đổi mới, chúng ta vẫn chưa thể làm giảm thảm họa chảy máu chất xám của nước nhà. Trong việc này, chúng ta không thể trông chờ các đối tác nước ngoài giúp đỡ. Tôi sống ở Việt Nam, và tôi đấu tranh để tài năng của các đồng nghiệp trẻ người Việt được thừa nhận ở Việt Nam. Nếu tôi sống ở Pháp và chào đón những sinh viên Việt Nam gia nhập các đồng nghiệp trẻ của mình, tôi sẽ đấu tranh để tài năng của họ được thừa nhận ở Pháp; tôi sẽ chẳng quan tâm đến nạn chảy máu chất xám ở Việt Nam, tôi thậm chí sẽ góp phần làm cho nó nặng hơn. Ý thức được rằng Việt Nam không thể cho họ điều kiện làm việc thích hợp và không tôn trọng hiểu biết và kỹ năng của họ, tôi sẽ cố hết sức để giữ họ lại Pháp hoặc đâu đó ở châu Âu. Chúng ta sẽ rất sai lầm nếu nghĩ rằng hỗ trợ quốc tế đơn giản là cho sinh viên Việt Nam cơ hội du học và cho giảng viên nước ngoài cơ hội đến Việt Nam một hai tuần để giảng lại những gì họ đã giảng ở nước họ. VGU và USTH sẽ trở thành nơi môi giới du lịch cho giảng viên nước ngoài và phương tiện chảy máu chất xám cho sinh viên Việt Nam nếu chúng ta cứ tiếp tục bỏ quên trách nhiệm của mình. Cụ thể, chúng ta cần: nhận dạng những nhóm nghiên cứu Việt Nam có khả năng tận dụng ưu thế hợp tác với các nhóm nghiên cứu nước ngoài để phát triển về chất lượng và quy mô; hỗ trợ các nhóm đó một cách thiết thực; ngược lại, mỗi sinh viên Việt Nam du học bằng hỗ trợ tài chính của nhà nước phải kèm theo điều kiện được một nhóm hướng dẫn trong nước liên hệ sát sao và theo dõi quá trình học tập.
Không phải mọi trường đại học nước ngoài đều tốt. Ở Mỹ có Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và Đại học Harvard, nhưng cũng có Đại học Trump và Đại học Pacific Western, nơi người ta có thể mua bằng cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ với vài nghìn đô-la. Có đủ mọi cấp độ giữa hai thái cực đó. Sẽ rất sai lầm khi cho rằng chỉ cần sao chép lại chương trình học của họ là có thể thành công. Chúng ta cần phải học từ cả thành công và thất bại của họ và chuyển sang bối cảnh Việt Nam. Các nước khác nhau có những mỗi ưu tiên khác nhau. Một trường đại học ở Thụy Điển có thể tự hào về việc giảng dạy về biến đổi khí hậu và cắt giảm phát thải CO 2. Việt Nam, nơi lượng phát thải CO 2 theo đầu người thấp hơn nhiều so với một số nước phát triển, nơi lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long tăng nhanh hơn nhiều so với sự dâng của mực nước biển, và nơi ô nhiễm nước và không khí ở các thành phố lớn đạt mức báo động, có những ưu tiên khác về môi trường. Nếu không tìm hiểu kỹ để xác định rõ các yêu cầu của Việt Nam, chúng ta sẽ thất bại trong sứ mệnh đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Còn nhiều điều đáng bàn nữa 3, nhưng tôi xin phép không đi sâu tiếp do khuôn khổ của bài viết.
Giải pháp với VGU và USTH
VGU và USTH phát triển chậm hơn kỳ vọng và đang trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về tuyển sinh. Như đã đề cập trong kỳ trước, nếu hai trường thất bại, đó trước hết sẽ là thất bại của Việt Nam chứ không phải thất bại của các nước đối tác. Giúp hai trường thành công là vì lợi ích của Việt Nam; quả bóng đang ở trong chân chúng ta.
Ngành Nhật Bản học là một trong những ngành có nhiều hợp tác quốc tế với các trường đại học ở Nhật Bản. Nguồn ảnh: Đại học Kinh tế TP HCM.
Tôi xin gợi ý rằng VGU và USTH có thể bắt đầu những nỗ lực thành lập những nhóm làm việc nhỏ với nhiệm vụ nghiên cứu một cách nghiêm túc tình hình và đưa ra những đề xuất để cải thiện nó. Một số nhóm cần nghiên cứu nhu cầu của Việt Nam về giáo dục đại học để phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội. Chẳng hạn, đối với khoa Vũ trụ và ứng dụng của USTH, một nhóm làm việc nhỏ có thể nghiên cứu thực trạng của chương trình vũ trụ của Việt Nam, sự chia sẻ trách nhiệm giữa các cơ quan và tổ chức thuộc các bộ khác nhau, sự thống nhất và phối hợp nếu có giữa các hoạt động của họ, tầm quan trọng của việc khai thác hình ảnh vệ tinh, triển vọng có được những vệ tinh dành riêng cho những quan trắc trên lãnh thổ Việt Nam, nhu cầu xây dựng thêm các trạm mặt đất, triển vọng dài hạn hơn về khả năng tự chế tạo hoặc thậm chí tự phóng vệ tinh, v.v.
Kết quả của việc đó sẽ vô cùng giá trị. Các báo cáo sẽ tạo thành một nguồn tư liệu quý giá để các hội đồng trường, các liên minh các trường đại học và các ban quản lý [dựa vào đó để] khởi xướng các bước giúp cho sự tiến bộ và phát triển của trường đại học. Quan trọng hơn, chúng sẽ khiến cộng đồng khoa học và sinh viên Việt Nam nhận thức tốt hơn trách nhiệm của mình; chúng sẽ trở thành hình mẫu để các tổ chức, chẳng hạn các hội chuyên ngành, chủ động tham gia vào sự tiến bộ và phát triển của giáo dục đại học Việt Nam, vào việc làm giảm và tiến đến ngăn chặn hoàn toàn nạn chảy máu chất xám.
Cỏ đồng bên bao giờ cũng xanh hơn. VGU và USTH có thể giúp sinh viên nhảy qua hàng rào sang bên đó, như sinh viên Việt Nam vẫn làm từ hàng thập kỷ. Họ cũng có thể giúp sinh viên tưới nước cho cỏ ở bên này. Quyết định lựa chọn và hành động ở bên nào là của chúng ta.
***
Qua nhiều phân tích minh họa cho cách quốc tế nhìn nhận về giáo dục đại học Việt Nam; tôi luôn bị ấn tượng bởi mối quan tâm lớn mà các học giả nước ngoài dành cho giáo dục đại học Việt Nam, tương phản với thái độ của nhiều học giả trong nước. Tôi nhớ vài năm trước, có lần tôi tiếp cận với hiệu phó của một trường đại học Việt Nam và nói với ông ấy về những khiếm khuyết trong việc cấp bằng tiến sỹ ở Việt Nam; ông ấy trả lời rằng đó không phải việc của mình, và rằng tôi nên tìm đến Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bất cứ ai yêu tri thức và khoa học và muốn thấy đất nước phát triển đều sẽ quan tâm và coi đó là việc của mình, không phải thế sao? Một thí dụ minh họa nữa là một hội thảo chiến lược mới đây của USTH mà tôi có tham dự. Số học giả người Pháp tham dự lớn hơn hẳn số học giả người Việt Nam, mặc dù hội thảo diễn ra ở Hà Nội.
Sẽ là sai lầm nếu cho rằng hỗ trợ quốc tế về giáo dục đại học có thể giúp chúng ta không cần đầu tư thời gian và công sức cho nó, giúp chúng ta thoát khỏi gánh nặng đối mặt với các thách thức, khuyến khích sự vô trách nhiệm và cho phép chúng ta nói rằng mình không quan tâm và đó không phải việc của mình. Trái lại, chúng ta cần được tổ chức một cách hiệu quả để tận dụng tối đa sự hỗ trợ đó. □
2 https://www.britishcouncil.ph/sites/default/files/06_le_ahn_vinh_vietnam.pdf ; Le AnhVinh, Internationalisation in Vietnamese Higher Education Policies and Practices, 2018.
https://pdfs.semanticscholar.org/d33c/c4aff98153bc46983951515fd1 chúng tôi Nguyen Thi Phuong Thu, The internationalisation of higher education in Vietnamese universities, 2018.
https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0738059317302584 ; Le Huu Nghia Tran, Game of blames: Higher education stakeholders’ perceptions of causes of Vietnamese graduates’ skills gap, International Journal of Educational Development, Volume 62, September 2018, Pages 302-312.
https://www.mironline.ca/corruption-vietnamese-education-major-issues/ ; Thinh Ho, Corruption in Vietnamese Education: Major Issues, The McGill International Review, November 22, 2017.
https://doi.org/10.6017/ihe.2018.0.10546; Do Minh Ngoc, Competitive Strategies of Vietnamese Higher Educational Institutions.
https://doi.org/10.1177/1523422318803086 ; Tam T. Phuong, Dae Seok Chai, Talent Development for Faculty: The Case of Vietnam, 3/10/2018.
https://mospace.umsystem.edu/xmlui/bitstream/handle/10355/69969/NguyenThiKieu.pdf?sequence=1 ; Thi Kieu Van Nguyen, Vietnamese educational leaders as border crossers: Vietnam and academic and career guidance and counselling activities, May 2019.
https://doi.org/10.3390/su11236818 ; Thuan Van Pham,Thanh Thi Nghiem, Loc My Thi Nguyen, Thanh Xuan Mai and Trung Tran, Exploring Key Competencies of Mid-Level Academic Managers in Higher Education in Vietnam,Sustainability 2019, 11(23), 6818.
Vo Van Tuan, Phan Quoc Lam, Development of private universities in Vietnam, International research journal, 3/81, March 2019;
https://minerva-access.unimelb.edu.au/bitstream/handle/11343/219372/Lily_Thesis_Dec2018.pdf?sequence=1&isAllowed=y ; Lily Thi Ha Nguyen, Becoming professional researchers: An exploration of the experiences of Vietnamese doctoral students in Australia, September 2018.
Bạn đang đọc nội dung bài viết 100 Tác Giả Nổi Bật Trong Nền Văn Học Trung Đại Việt Nam trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!